SAO THÁI TUẾ
***
Thái
Tuế có hai loại: một là Thái Tuế địa bàn, hai là Thái
tuế phi tinh.
Thái
Tuế địa bàn là Thái Tuế biểu hiện trên la bàn hậu thiên bát quái, tức bàn
nguyên đán. Trên bàn nguyên đán (la bàn) có 12 địa chi.
Thái
Tuế mỗi năm lần lượt trực ở một địa chi đi từ Tý sang Sửu - Dần - Mão... kết
thúc ở Hợi, cứ 12 năm là đi hết một vòng tròn.
Năm
Tý: Thái tuế đóng ở Tý thuộc hành Thủy (Thân Tý Thìn).
Chính sát là phương Nam Tỵ - Ngọ - Mùi là Tuế phá không thể chế hóa nếu phạm
thường có đổ máu chẳng nên làm nhà hay mai táng, Bính, Nhâm, Đinh, Quý là
phương sát dữ. Năm Tý nên động thổ những hướng Giáp, Canh, Ất, Tân, toạ Cấn hướng
Khôn, động thổ vào các tháng 3, 7, 11 thì đại cát lợi. (Thái tuế có thể ngồi
vào không thể hướng vào. Phương sát có thể hướng vào không được ngồi vào).
Năm
Sửu: Thái tuế đóng ở Sửu, thuộc hành Kim (Tỵ, Dậu,
Sửu) chính sát ở phương Đông Dần, Ngọ, Tuất. Chẳng nên dùng Giáp, Canh, Ất, Tân
phạm sát hung dữ. Nên động thổ Bính, Nhâm, Đinh, Quý tọa Càn hướng Tốn dùng vào
các tháng 2, 6, 10, 12 là đại cát đại lợi.
Năm
Dần: Thái tuế đóng ở Dần thuộc hành Hỏa (Dần Ngọ
Tuất) chính sát ở phương Bắc: Hợi, Tý, Sửu chẳng nên dùng. Bính, Nhâm, Đinh,
Quý là bốn phương sát, nên động thổ tại Giáp, Canh, Ất, Tân, toạ Cấn hướng Khôn
khởi công vào tháng 1, 3, 9, 11 đại cát.
Năm
Mão: Thái tuế đóng ở Mão thuộc hành Mộc (Hợi Mão
Mùi), chính sát ở phương Tây, Thân, Dậu, Tuất, chẳng nên dùng Giáp, Canh, Ất,
Tân là bốn phương phạm sát. Nên động thổ tại Bính, Nhâm, Đinh, Quý toạ Càn hướng
Tốn, khởi công các tháng 8, 10, 12 đại cát lợi.
Năm
Thìn: Thái tuế đóng tại Thìn là hành Thủy (Thân Tý
Thìn), chính sát tại Nam Tỵ, Ngọ, Mùi chẳng nên dùng Bính, Nhâm, Đinh, Quý là bốn
phương phạm sát, nên động thổ Giáp, Canh, Ất, Tân tọa Cấn hướng Khôn. Các tháng
1, 5, 7, 11. Đại cát lợi.
Năm
Tỵ: Thái tuế đóng tại Tỵ thuộc hành Kim (Tỵ Dậu
Sửu), chính sát tại phương Đông Dần, Mão, Thìn, chẳng nên dùng Giáp, Canh, Ất,
Tân là bốn phương phạm sát, nên động thổ tại Bính, Nhâm, Đinh, Quý tọa Càn hướng
Tốn, dùng vào các tháng 4, 8, 12 là đại cát lợi.
Năm
Ngọ: Thái tuế đóng ở Ngọ thuộc hành Hỏa (Tỵ Ngọ
Mùi) chính sát tại phương Bắc, Hợi Tý Sửu chẳng nên dùng. Bốn phương Bính,
Nhâm, Đinh, Quý phạm sát. Chỉ nên dùng Giáp, Canh, Ất, Tân tọa Cấn hướng Khôn,
động thổ vào các tháng 1, 5, 9 đại cát lợi.
Năm
Mùi: Thái tuế đóng tại Mùi thuộc hành Mộc (Hợi Mão
Mùi) chính sát ở phương Tây Thân, Dậu, Tuất chẳng nên dùng, Giáp, Canh, Ất, Tân
là bốn phương phạm sát. Nên dùng Bính, Nhâm, Đinh, Quý, tọa Càn hướng Tốn động
thổ vào các tháng 4, 6, 8, 12. đại cát lợi.
Năm
Thân: Thái tuế đóng tại Thân thuộc hành Thủy, chính
sát phương Nam Tỵ, Ngọ, Mùi chẳng nên dùng Bính, Nhâm, Đinh, Quý là bốn phương
phạm sát, chỉ nên dùng Giáp, Canh, Ất, Tân, tọa Cấn hướng Khôn, động thổ vào
các tháng 3, 5, 9, 11 đều là đại cát lợi.
Năm
Dậu: Thái tuế đóng ở Dậu thuộc hành Kim chính sát
ở phương Đông Dần Mão Thìn, chẳng nên dùng Giáp, Canh, Ất, Tân là bốn phương phạm
sát, nên động thổ vào các cung Bính, Nhâm, Đinh, Quý toạ Càn hướng Tốn vào các
tháng 4, 6, 8, 12. đại cát.
Năm
Tuất: Thái tuế đóng tại Tuất thuộc hành Hỏa chính
sát tại phương Bắc Hợi Tý Sửu chẳng nên dùng Bính, Nhâm, Đinh, Quý. Là bốn
phương phạm sát nên động thổ vào các cung Giáp, Canh, Ất, Tân tọa Cấn hướng
Khôn dùng vào các tháng 1, 3, 7, 11. đại cát lợi.
Năm
Hợi: Thái tuế đóng tại Hợi thuộc hành Mộc chủ sát
tại phương Tây Thân, Dậu, Tuất chẳng nên làm nhà hay thiên táng, nên kiêng kỵ
Giáp, Canh, Ất, Tân là bốn phương phạm sát chỉ nên dùng Bính, Nhâm, Đinh, Quý tọa
Càn hướng Tốn, khi dùng hướng nào chọn được hướng Thiên ất hay Quý nhân là đại
cát lợi.
Thái
Tuế phi tinh theo tích vận của “lường thiên xích" chỉ có phái Phong Thủy
Huyền Không mới sử dụng.
Cửu
cung phi tinh lưu niên, mỗi năm có một sao bay vào trung cung tám sao còn lại lần
lượt bay vào tám cung, cho nên phi tinh của từng cung hàng năm khác nhau, 9 năm
đi một vòng tuần hoàn. Thí dụ năm Giáp Tý, Thái Tuế địa bàn ở cung Tý, nếu năm
đó Nhất Bạch nhập trung cung thì Thái Tuế cũng theo Nhất Bạch trực ở cung giữa.
Nếu năm đó Nhất Bạch bay đến phương Cấn thì Thái Tuế cũng theo Nhất Bạch đến
phương Cấn. Nếu năm đó Nhất Bạch bay đến phương Chấn thì Thái Tuế cũng theo Nhất
Bạch bay đến phương chấn, v.v... cứ như vậy mà suy ra, Nhất Bạch bay đến đâu
thì Thái Tuế bay đến đó, gọi là phi Thái Tuế. Cũng vậy, năm Ất Sửu, Thái Tuế địa
bàn ở phương Sửu, Sửu ở Bát, Thái Tuế bay theo Bát mà bài bố vào cung vị của
nó. Năm Đinh Mão, Thái Tuế địa bàn ở Phương Mão, Mão là Tam (3), Thái Tuế bay
theo Tam mà bài bố vào cung vị của nó. Năm Thìn, Thái Tuế địa bàn ở phương
Thìn, Thìn là Tứ, Thái Tuế bay theo Tứ mà bài bố vào cung vị của nó. Năm Ngũ
Hoàng thổ tinh nhập trung cung thì Thái Tuế địa bàn và phi Thái Tuế trùng lên
nhau. Cứ như thế mà suy ra.
***
Bài
tài liệu lưu trữ
TRẠCH
BẰNG (Tam Do) Phong
Thủy Sư – Lương Y.
Nhận xét
Đăng nhận xét