THỜ CÚNG VÀ LỄ BÁI
Thờ Cúng và Lễ Bái
Thờ Cúng và Lễ Bái là một đạo lý Truyền Thống của Dân Tộc có từ ngàn xa, khi con người ý niệm được bổn phận. Ở thời kỳ Quân Chủ, các triều đại Vua Chúa cho Thờ Cúng và Lễ Bái là biểu tượng cao quí nhất đối với các bậc Tiền Nhân, nên đặc trách riêng một Bộ gọi là Bộ Lễ để trông coi việc này.
Còn
riêng về Phật Giáo, vấn đề Thờ Cúng và Lễ Bái lại càng hàm xúc bao ý nghĩa và
giá trị, thể hiện được tinh thần thiêng liêng trọng đại đối với các bậc Thánh
Hiền. Thế mà cho đến hôm nay ý nghĩa và giá trị vấn đề Thờ Cúng và Lễ Bái đã được
bao nhiêu người thông suốt? Vì không thông suốt, đa số quần chúng thiếu sót Lễ
Nghi cung cách, gây nhiều tội lỗi với các bậc bề trên. Họ không phải không
muốn, nhưng không được ai chú dẫn tường tận để có đức tin.
Nhằm
mục đích giúp mọi người thông suốt giá trị vấn đề trên, chúng tôi xin trình
bày ý nghĩa Thờ Cúng và Lễ Bái qua những nhận định như sau:
I/. VẤN ĐỀ THỜ:
Trước
hết là vấn đề Thờ. Thờ nghĩa là thể hiện, tỏ bày sự Tôn Kính của mình lên các Tiền
Nhân, các Thánh Đức mà mình đã dâng trọn niềm tin, như thờ Phật, thờ Chúa, thờ
Tổ Quốc, thờ Tổ Tiên, Ông-Bà v.v... Người con đã có Giòng Họ Tông Môn thì phải
có bàn thờ Tổ Tiên. Con người có giống nòi chủng tộc thì phải có bàn thờ Tổ
Quốc. Tín Đồ có Tín Ngưỡng Tôn Giáo thì phải có bàn thờ đức Giáo Chủ của mình.
Ngược lại, con cái mà không có bàn thờ Tổ Tiên, Ông Bà là con bất Hiếu. Một
công dân mà không có bàn thờ Tổ Quốc là kẻ bất Trung. Một tín đồ mà không có
bàn thờ đức Giáo Chủ của mình là người bất Tín.
Nhưng
hiện nay có một số người không hiểu bảo rằng Thờ Cúng là hành động mê tín dị
đoan, kém văn minh, thiếu khoa học, bởi vì những hình tượng được thờ đều bằng
xi măng, hoặc bằng giấy và hương đèn đều bằng cây, bằng mạt cưa làm nên v.v...
rồi tin tưởng đặt lên thờ và cho là thiêng liêng. Những hành động ấy đã không
lợi ích chi, lại còn nhơ bẩn đến nhà cửa và tốn hao tiền bạc.
Lời
này mới nghe qua như có lý, nhưng kỳ thực xét cho kỹ thì hoàn toàn sai lầm.
Sự sai lầm này được nhận định như sau:
a/. Hình Tượng mặc dù được xây dựng bằng
giấy hay bằng xi măng hoặc hương đèn được làm nên bằng mạt cưa hay bằng gỗ
đi chăng nữa, những vật thể ấy đã trở thành thiêng liêng cao quí, nhất là đã tượng
trưng (Symbolizes) cho dòng họ, Tổ Tiên, Ông Bà, cho Thánh Hiền, cho chư Phật
mà mình đã Tôn Thờ. Cũng như Lá Cờ của một Quốc Gia, mặc dù nó được kết bằng
vải tầm thường không giá trị, nhưng nó đã được tiêu biểu cho Tổ Quốc, cho
Quốc Hồn Quốc Túy của một Dân Tộc mà ngời Công Dân hay Chiến Sĩ đều phải Tôn
Thờ. Một Công Dân hay Chiến Sĩ mỗi khi chào cờ không phải chào miếng vải ấy,
hoặc hy sinh dưới cờ không phải chết cho miếng vải mà ở đây họ chào và chết vì
Tổ Quốc, vì Hồn Thiêng đất nước đã được biểu hiện qua lá cờ. Nước Mỹ ai cũng
cho là một nước Văn Minh đứng đầu trên Thế Giới về phương diện khoa học cơ
giới. Thế mà họ vẫn tôn trọng ngày Hollyvine là một Quốc Lễ và đến ngày đó dân
chúng cả nước đều được phép nghỉ để tổ chức lễ theo phong tục của họ. Chúng
ta đối với ngày lễ này cho là hành động mê tín dị đoan, nhưng đối với người
Mỹ, ngày lễ này là một ý nghĩa trọng đại nhất và mỗi năm cần phải đợc tổ chức
linh đình không cho mất gốc. Còn ngày Lễ Tổ Tiên Ông Bà của chúng ta chính là
ngày cao cả không kém của Giòng Họ Tông Môn, nhưng một số người khinh thường
cho việc làm đó là hành động mê tín dị đoan thiếu Văn Minh tiến bộ rồi cho nó
đi vào quên lãng. Thật là một tội lỗi nặng nề. Mỗi quốc gia đều có nền Văn Hóa
riêng của họ và Văn Hóa đó được họ tìm mọi cách đề cao tuyệt đối tột đỉnh.
Chúng ta cũng có nền Văn Hóa riêng của Dân Tộc ta. Chúng ta cũng phải có bổn
phận phát huy nền Văn Hóa của Tổ Tiên đợc sáng tỏ thêm hơn là đi bôi bác và
chà đạp lên nó để đắc tội với Tiền Nhân.
b/. Chúng ta thờ Tổ Tiên là để tri ân và
báo ân các bậc Cha Ông đã dày công sanh trưởng cuộc đời mình. Họ đã góp phần
không nhỏ trong việc kiến tạo xã hội và giòng họ. Chúng ta thờ Tổ Quốc là để
ghi ân và noi gương các bậc anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho sự sống còn của
giống nòi. Chúng ta thờ Phật là để quy ngưỡng hướng về các bậc đã giác ngộ và giải
thoát, nhờ các Ngài dẫn dắt chúng ta và chúng sanh vững vàng đi trên con đường
Thánh Thiện. Bàn thờ Ông Bà không được thiết lập làm biểu tượng thì con cháu
không biết nương vào đâu để thể hiện lòng hiếu thảo đối với Tổ Tiên và bàn thờ
Phật không được an vị trang nghiêm thì đệ tử cũng chẳng biết nương tựa vào
nơi nào để bộc lộ lòng tôn kính đối với bậc Thầy chứng ngộ. Khác nào trên mộ
không có đặt vòng hoa tưởng niệm thì những người còn sống làm sao tỏ bày được
lòng tri ân đến những kẻ đã hy sinh vì đại nghĩa. Con ngời cần phải có điểm
tựa để an tâm, mặc dù điểm tựa đó bằng bất cứ hình thức nào.
Chúng
ta chưa phải là Thánh Nhân thì nghi lễ, cung cách Thờ Cúng và Lễ Bái rất cần
thiết cho việc tu thân, giáo dục gia đình và hướng dẫn con người làm tròn bổn
phận trong xã hội loài người, nhất là con người ở vào thời đại văn minh. Như
vậy Thờ thế nào cho đúng nghĩa?
A/. Ý NGHĨA THỜ:
Một
khi thờ nhân vật nào đó, thì nhân vật ấy phải thể hiện được ý sống và nghĩa
sống qua Vật Thể biểu tượng đợc thờ. Một Vật Thể biểu tượng cho Nhân Vật được
tôn thờ phải thể hiện giá trị tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm. Một Vật Thể
biểu tượng tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm sẽ trở thành Vật Linh, làm môi
trường giao cảm giữa người thờ và Nhân Vật được tôn thờ. Thế nào là Tâm ân
Sắc và Sắc ấn Tâm;
a/. TÂM ẤN SẮC:
1. Tâm: tiếng Phạn là
Citta nghĩa là Tâm linh của mỗi con người. Tâm linh này vẫn hiện hữu trong con
người khi xa lìa tất cả đối tượng và có khả năng xét nghiệm tư duy để quyết
định mọi việc. Nói một cách khác, Tâm con người vẫn sinh hoạt suy tư trong
khi tất cả đối tượng không còn hiện hữu. Trước mặt, Tâm là danh từ chung gồm
Tâm Vương và Tâm Sở, là những Tâm Pháp quan hệ tương đối với Sắc Pháp. Tâm ở
đây tương đương với bốn Uẩn là Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Tâm này là chỉ cho
Tâm Vương một trong năm Vị (Năm Vị là: Tâm Pháp, Sắc Pháp, Tâm Sở Pháp, Tâm
Bất Tương Ưng Hành Pháp, Vô Vi Pháp).
Theo Đại Thừa Duy Thức Tông, Tâm đây chính
là Tâm Thức Alaya. Tâm Thức Alaya là thể căn bản có khả năng sanh ra vạn pháp.
Tâm Thức Alaya ngoài việc sanh ra vạn pháp, còn có khả năng sanh khởi Tâm Ý
(Thức Mạt Na) để chấp trì vạn pháp và sanh khởi Tâm Thức Phân Ly (Ý Thức) để
phân biệt vạn pháp. Tâm đây còn có nghĩa là Tinh yếu.
2. Ấn: là in vào, chứng
nhận, tức là tiêu biểu hiển bày cái Đức chỗ chứng đắc nội Tâm của chư Phật. ấn
còn có nghĩa là quyết định. Nhưng Ấn ở đây nghĩa là dùng Tâm in sâu vào vật nào
đó và khiến cho vật đó trở thành Vật Linh (đồ vật được thể hiện sự linh cảm)
biểu hiện được Phật Tâm linh cảm.
3. Tâm Ấn: theo Đại Nhật Kinh
Sớ quyển 3 và Đại Nhật Kinh Sớ Diễn Áo Sao quyển 2 giải thích rằng: “Tâm Ấn là
nơi tự thân thực hiện được tất cả Phật Tâm tác dụng”, nghĩa là khiến cho tất
cả Phật Tâm sinh hoạt. Theo Đại Nhật Kinh Sớ quyển 5, Mục Bất Động Minh Vương
giải thích: “Tâm Ấn là biểu thị vạn Đức ở trong Tâm”.
Như vậy Tâm Ấn nghĩa là Tâm biểu thị vạn
Đức và khiến cho Phật Tâm tác dụng chứng đắc cho Hành giả khải thỉnh.
4. Sắc: là sắc chất, tức
là chỉ cho một vật nào đó hoàn toàn thuộc về vật thể được dùng làm biểu tượng
để tôn thờ, như là Hình Giấy, Tượng Cốt, Ấn Dấu, Pháp Khí, Đồ Hình, lá Bùa,
khăn Ấn v.v... đều là Sắc Chất. ẤN: là in sâu, tức là dùng Tâm in sâu vào vật
nào đó và khiến cho nó trở thành Vật linh (đồ vật được linh cảm).
5. Tâm Ấn Sắc: nghĩa là Tâm Linh
của con người in sâu vào một vật nào và khiến cho vật đó trở thành có giá trị
đợc gọi là Tâm Ấn Sắc. Vật đó được Tâm Linh con người ấn vào gọi là Vật Thể,
vì nó là một Vật Linh. Vật Linh là một Vật Thể biểu tượng có tánh cách linh
cảm đối với con người.
Thí dụ: Một em bé đem Tâm ấn vào
cái gối nằm (Pillow) của em thì cái gối nằm đó trở thành vật linh
đối với em. Em quí gối nằm nói trên như quí thân mạng của em. Gối nằm nói trên
nếu như mất đi thì em đòi cha mẹ phải tìm cho được, mặc dù em đã trưởng
thành và cái gối nằm kia đã rách nát. Một lá thơ của bà con ở Việt Nam gởi là
một Vật Linh, nguyên vì bà con đã Ấn Tâm vào đó. Một Danh Thiếp (Card) chúc tết
là một Vật Linh, nguyên vì người chúc tụng đã Ấn Tâm vào đấy.
b/. SẮC ẤN TÂM:
Sắc Ấn Tâm: nghĩa là một Vật
Thể nào được in sâu vào trong Tâm Linh của con người và hình bóng Vật Thể đó
làm khởi điểm trợ duyên cho Tâm Linh con người tác dụng giao cảm bằng cách nhớ
nhung, hồi tưởng, tưởng niệm gọi là Sắc Ấn Tâm.
Thí dụ: Anh A nhớ quê hương,
nhớ Ông Bà nhà cửa, nhớ bà con thân thuộc, nhớ bạn bè làng xóm, nhớ
những hình ảnh kỷ niệm của tuổi học trò, nhớ những quá trình kinh nghiệm sống
của mình v.v... Những hình ảnh nhớ nhung nói trên được gọi là Sắc Ấn Tâm.
Cũng
từ tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm vừa trình bày, người có tín ngưỡng phát
tâm thờ Phật hoặc thờ Ông Bà trong nhà thường rước Thầy đến làm lễ an vị hầu
giúp cho bàn thờ Phật hay bàn thờ Ông Bà trở thành Vật Linh để làm biểu tượng
(Symbolizes) cho sự cầu nguyện. Bàn thờ Phật hay bàn thờ Ông Bà sau khi làm lễ
an vị thì đã thể hiện được ý sống và nghĩa sống giữa chư Phật, chư Bồ Tát
cùng với Tín Đồ, cũng như giữa Tổ Tiên Ông Bà cùng với con cháu. Tâm Linh của
chư Phật, chư Bồ Tát liền cảm ứng với Tâm Linh của Tín Đồ, cũng như Tâm Linh
của Tổ Tiên ông Bà liền giao tình với Tâm Linh của con cháu qua tầng số từ trường
(Magnetic-field) ý sống và nghĩa sống được phát xuất từ Vật Thể biểu tượng
nơi bàn thờ qua sự nguyện cầu.
Trường
hợp này cũng giống như Tấm Thiệp chúc Tết là một Vật Thể biểu tượng ý sống và
nghĩa sống tình cảm của Tâm Linh người chúc tụng với Tâm Linh người được
chúc tụng. Tấm Thiệp chúc Tết sau khi mua về được người chúc tụng Ấn Tâm vào
đấy bằng cách thành tâm viết vài chữ cầu chúc trong đó sẽ trở thành Vật Linh,
nghĩa là tấm Thiệp chúc tết này đã có chứa đựng ý sống của người chúc tụng.
Người được chúc tụng sau khi tiếp nhận tấm Thiệp chúc Tết nói trên của bạn
gởi, liền phát khởi Tâm Linh giao cảm nghĩa sống truyền đến người bạn chúc
tụng qua từ trường (Magnetic-field) ý sống của Vật Thể (Tấm Thiệp). Tấm Thiệp
chúc Tết trợ duyên này đóng vai trò vật đới chất (vật dùng làm chỗ nương tựa)
cho Tâm Linh của hai người giao cảm ý sống và nghĩa sống với nhau. Duy Thức
Học có dạy: “Dĩ Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” là ý nghĩa của đoạn văn nói
trên. Câu “Dĩ Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” nghĩa là đem tâm mình duyên
với tâm người qua sự nương tựa nơi Vật Thể làm khởi điểm giao cảm một cách
chân thành. Bàn thờ Ông Bà nếu như không có để làm chỗ trợ duyên đới chất thì
nhất định Tâm Linh của Tổ Tiên không thể giao cảm với Tâm Linh của con cháu,
cũng như Tấm Thiệp chúc Tết nếu như không có đại diện thì Tâm Linh người
chúc tụng không thể giao cảm đến với ngời được chúc tụng. Bàn thờ Phật cũng
thế. Người Tín Đồ cầu nguyện, nếu không có bàn thờ Phật để làm biểu tượng trợ
duyên thì sự linh thiêng của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền trong mười
phương khó có thể cảm ứng đến với người cầu nguyện.
Nhưng
ở đây, một cành hoa giấy và một cành hoa sống thì cành hoa giấy chỉ có giá trị trang
trí bàn thờ cho thêm sắc sảo so với một cành hoa sống. Một cành hoa sống, ngoài
nhiệm vụ tô điểm làm đẹp bàn thờ lại còn có giá trị thể hiện được ý sống và
nghĩa sống một cách trọn vẹn so với bông hoa giấy. Nguyên vì cành hoa tươi tự
nó có từ trường (Magnetic-field) sức sống tỏa ra, trong lúc đó cành hoa giấy
chỉ là một loại hoa chết. Một đôi đèn nến có giá trị hơn đôi đèn điện. Đôi đến
nến, ngoài sự tiêu biểu cho ánh sáng, còn nói lên được ý sống và nghĩa sống
của một Vật Thể. Đôi đèn nến biểu tượng được ý sống và nghĩa sống của một Vật
Thể qua sự biến thuyên liên tục không ngừng. Nhờ sự biến thuyên liên tục không
ngừng mà Vật Thể mới sống còn tồn tại. Nhưng cũng vì sự biến thuyên liên tục
không ngừng này mà Vật Thể nói trên phải chết đi để chuyển sang một Vật Thể
khác qua ý sống và nghĩa sống của nó kết hợp nối liền. Một Vật Thể nếu như
không có ý sống và nghĩa sống tức là Vật Thể đó đã chết. Dòng nước chảy là
dòng nước sống và dòng nước không chảy chính là dòng nước đã chết. Dòng nước
đã chết thì không thể hiện được ý sống và nghĩa sống của dòng nước.
Như
vậy trên bàn thờ, chúng ta không thể không đốt hương, đốt đèn, cắm hoa tươi
v.v... là những Vật Thể biểu tượng được ý sống và nghĩa sống, làm tăng thêm
sự uy nghiêm, tôn kính, linh động đối với chư Phật, chư Tổ, Thánh Hiền hoặc
đối với Tổ Tiên Ông Bà qua sự linh ứng biểu trưng này. Trên bàn thờ, những
Hình Tượng, những nén hương, những đôi nến, những cành hoa tươi v.v... đều là
những gạch nối giao cảm quan trọng giữa Tâm Linh của Ôg Bà Tổ Tiên, của chư
Phật mười phương cùng với Tâm Linh của Môn Đồ Đệ Tử và của con cháu họ hàng. Nh
vậy, Thờ thế nào cho phải cách?
B/. CÁCH THỜ:
Thờ
Tổ Tiên là tiêu biểu đức nhẫn nại của Ông Cha đã dày công bồi đắp cho giòng họ,
cho Tông Môn một sự nghiệp tinh thần, một ý sống của con người hầu giúp con
cháu đủ sức vươn lên trong xã hội và bắt chước đức tính đó để tiếp nối xây
dựng thế hệ mai sau ngày càng thêm vinh hiển.
Thờ
Tổ Quốc là tiêu biểu gương cao quý của các bậc Tiền Nhân đã hy sinh xương máu
để tài bồi Giang Sơn Cẩm Tú của chúng ta trường tồn và noi theo gương sáng đó
để bảo vệ giống nòi, phồn vinh đất nước và xây dựng một cuộc sống thanh bình
an lạc thật sự cho Dân Tộc, dĩ nhiên trong đó có con cháu của mình.
Thờ
Phật là tiêu biểu cho Trí Tuệ Giác Ngộ, cho Đức Hạnh Từ Bi, cho ý chí Dũng Mãnh
của chư Phật mà chúng ta nương theo những gương cao quý này để đào luyện cho
mình đầy đủ sáng suốt, đầy đủ tình thương và đầy đủ nghị lực giống như các
đức Như Lai, ngõ hầu đả thông trước mọi vấn đề mê ngộ, chân giả, để khỏi bị
lầm lạc và nhận thức được chân giá trị của cuộc đời, giải thoát mọi khổ đau
sanh tử luân hồi. Đó là chân nghĩa của cách thờ tự mà chúng ta đã và đang theo
đuổi thực hiện.
C/. CHỖ THỜ:
Theo
quan niệm Tiền Nhân, con người phải có xương sống mới đứng vững, cây cỏ phải
có gốc rễ mới tồn tại thì cái nhà phải có cột chính, thường gọi là cột Cái mới
hình thành. Cột chính bao giờ cũng ở giữa gọi là “Trung” để gánh vác hai
mái nhà và cột hai bên gọi là cột Con, cũng gọi là cột Biên chỉ đóng vai trò
phụ đỡ hai mái nhà yên đứng. Đây là nói về phương diện hình thức tổ chức. Còn
về phương diện tiêu biểu, cột chính gọi là cột Trụ của cái nhà, cũng như Tổ
Tiên Ông Bà cha mẹ là cột Trụ của gia đình giòng họ, có nhiệm vụ gánh vác cả sự
nghiệp của Tiền Nhân và bảo tồn sự sống còn của con cháu từ khi sanh ra cho đến
khi thành nhân. Thế nên người xưa, trong ba căn nhà, họ chọn căn giữa là căn
Chính của cái nhà để thờ Tổ Tiên Ông Bà. Lớn hơn nữa, mỗi giòng họ như họ
Trần, họ Nguyễn, họ Lê v.v... phải có nhà thờ Họ, được thiết lập riêng trong
làng Họ của mình để cùng nhau thờ tự. Giả sử một gia đình nghèo khó đến mấy đi
chăng nữa, dù chỉ có túp lều tranh, họ cũng chọn chỗ nào chính giữa của túp lều
ấy để trang trí bàn thờ Tổ Tiên.
Ngày
nay theo quan niệm Tây phương, họ cho chỗ chính của cái nhà là phòng khách, vì
họ không chủ trương thờ Ông Bà. Họ sống theo chủ nghĩa cá nhân, chỉ biết lấy
mình mà thôi, ngoài ra không cần thiết đến ai cả, nhất là những người thân
thuộc về quá khứ, cho đến tông môn của họ cũng thế.
Chúng
ta là người Á Châu, ý thức được huyết thống giống nòi, nhận chân được sự
liên quan chặt chẽ hệ thống Tâm Linh trong quá trình chuyển hóa luân lưu, nhất
định phải có bàn thờ Ông Bà trong nhà để làm điểm tựa tinh thần, mặc dù bàn thờ
đó lớn hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Ở nước ngoài, khi nhu cầu
đời sống còn thiếu thốn, chúng ta khó chọn chỗ thờ tự đúng theo ý mình muốn.
Đạo Phật chú trọng tinh thần hơn hình thức. Chúng ta thờ tự như thế nào cũng
được miễn sao chỗ thờ đó thể hiện được lòng thành của mình đối với các Đấng
Thiêng Liêng và những Bậc trên trước.
D/. GIÁ TRỊ NƠI THỜ:
Chúng
ta thờ tự đức Phật hay Tổ Tiên Ông Bà bằng cách nào đi chăng nữa cũng phải nói
lên được giá trị thiêng liêng nơi thờ. Theo Phật Giáo chúng ta có thể đặt bàn
thờ bất cứ nơi nào trong nhà, nhưng với điều kiện vị trí chỗ thờ phải được
thanh tịnh và bàn thờ phải được thiết trí trang nghiêm, có thể gợi lên cho con
cháu một ấn tượng Tôn Kính mỗi khi chiêm ngưỡng. Chúng ta đừng quan niệm
rằng, bàn thờ như kệ đựng sách, như bàn đựng rượu v.v... bỏ lên trên đó đủ
thứ tạp nhạp để phải đắc tội với các bậc Thiêng Liêng.
Chúng
ta có một bàn thờ rất sang trọng lộng lẫy, nhưng cứ để hương tàn khói lạnh
thì càng thêm có tội với Người Trên. Chi bằng chúng ta chỉ có một bàn thờ đơn
giản, nhưng được thiết trí trang nghiêm thanh tịnh và được con cháu tới lui
thăm viếng mỗi ngày cũng đủ nói lên bổn phận làm người và giá trị nơi thờ. Chúng
ta hằng ngày phải có nhiệm vụ chăm sóc bàn thờ cũng như chăm sóc phòng khách,
và coi trọng bàn thờ như trọng bản thân, đừng tỏ thái độ khinh thường nơi thờ
tự và mỗi khi chiêm bái.
Để
xác định một lần nữa, thờ tự không phải là một hành động mê tín dị đoan mà là
Truyền Thống Văn Hóa và Tín Ngưỡng của Dân Tộc, chúng ta không thể quên được
sự nghiệp của nguồn gốc Văn Hóa Đông Phương. Đó chính là một trong những biểu
tượng văn minh của người Á Đông mà các nước Tây phương khó có thể tìm được
giá trị Tâm Linh ấy trong cuộc sống xã hội con người.
Người
Phật Tử chúng ta đã hiểu được ý nghĩa, giá trị và phương cách thờ tự theo
quan niệm Phật Giáo, hãy cố gắng giữ gìn Truyền Thống và thực hiện cho kỳ được
việc Thờ Tự tại gia cho chu đáo, vừa lợi ích cho mình trong việc tu tạo bản
thân, cải thiện hoàn cảnh và giáo dục con em sau này trờ nên Thiện Mỹ để xứng
đáng là người Phật Tử trong hoàn cảnh hiện tại giữa thời đại hiện kim này.
II/. VẤN ĐỀ CÚNG:
Vấn
đề Cúng là một nghi vấn không ít trong quảng đại quần chúng và cũng có lắm người
hành động sai lệch, thành thử vô tình làm mất giá trị của sự Cúng Bái. Không
gia đình Á Châu nào mà không có Cúng kỵ Tổ Tiên và cũng không Quốc Gia nào mà
không có Quốc Lễ, nhưng không được bao nhiêu người hiểu rõ giá trị và ý
nghĩa của sự Cúng Bái. Theo Phật Giáo, Cúng Bái có những ý nghĩa và giá trị như
sau:
A/. Ý NGHĨA CỦA SỰ CÚNG:
Cúng
gọi đủ là “Cúng Dường”, đó là danh từ của Phật Giáo. Danh từ này được
chuyển ngữ từ hai chữ “Cung Dưỡng” của tiếng Trung Hoa. Trước hết
chúng ta cần hiểu hai danh từ: Cung Dưỡng và Cúng Dường.
a. Cung Dưỡng: nghĩa là cung cấp
và phụng dưỡng, tức là cung ứng theo sự nhu cầu về vật chất của những kẻ thiếu
thốn và nuôi dưỡng khi họ đói cơm rách áo v.v... Sự Cung Dưỡng ở đây có tánh
cách bố thí với tình thương được mở rộng, giúp đỡ những phương tiện cần thiết
về đời sống cho những kẻ đang cần sự hỗ trợ qua tinh thần vị tha của những người
dư thừa.
b. Cúng Dường: (Tiếng Phạm là:
Pùjana) nghĩa là hiến cúng và dâng lễ, tức là dâng hiến những lễ vật lên các
bậc tôn kính, mong cầu ơn trên chứng minh. Cúng Dường ở đây có tánh cách chí
thành, quy ngưỡng, tưởng niệm đến các Tiền Nhân, các bậc Thánh Đức thâm ân mà
kẻ dưới có bổn phận tri ân và báo ân.
B/.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CUNG DƯỠNG Và CÚNG DƯỜNG:
a. Cung Dưỡng: nghĩa là phụng dưỡng,
chăm sóc những người hiện đang sống trên đời với tình thương sẵn có mà bổn
phận làm người cần phải trang trải trong sự quan hệ sanh tồn lẫn nhau, như
phụng dưỡng cha mẹ, anh chị em, phụng dưỡng đồng bào ruột thịt v.v...
Còn
đối với những kẻ đã quá cố, tức là những người đã chết mất, chúng ta không
dùng hai chữ “Cung Dưỡng” trong sự tế lễ để khiến mất đi lòng Tôn Kính
ở đây chúng ta dùng hai chữ “CÚNG TẾ” nhằm để thể hiện lòng thành đến
với họ trong sự Lễ Nghi cung cách. Cúng Tế nghĩa là đem lễ vật hiến cúng theo
lễ nghi tế tự, như cúng tế tổ tiên ông bà, cúng tế Thần Thánh v.v...
b. Cúng Dường: nghĩa là tưởng
niệm đến những bậc thâm ân, những Thầy chỉ đạo mà mình đã tri ân, đã quy ngưỡng
với hành động Tôn Kính. Chúng ta không chỉ “Cúng Dường” cho những người
hiện đang còn sống mà còn “Cúng Dường” đến cho những bậc đã quá vãng,
đã qua đời. Hơn nữa, trong Phật Giáo còn gọi là Cúng Dường Tam Bảo (Cúng dường
Phật, Pháp, Tăng), cúng dường Thầy Tổ, cúng dường Trai Tăng v.v...
C/. GIÁ TRỊ VÀ QUAN NIỆM SỰ CÚNG:
C/. GIÁ TRỊ VÀ QUAN NIỆM SỰ CÚNG:
Người
Việt Nam phần đông ít ai thông suốt ý nghĩa và giá trị của sự Cúng Bái. Họ chỉ
biết hành động theo tập tục cổ truyền của Ông Bà để lại mà bổn phận con cháu
phải giữ gìn Gia Bảo tinh thần ấy. Đó là một điều rất tốt nhưng cũng rất tai
hại cho những con cháu thiếu đức tin. Vì không hiểu ý nghĩa Cúng Bái, người kế
thừa Gia Bảo Tổ Tiên không giải thích được cụ thể cho con cháu lãnh hội và còn
làm lệch lạc giá trị cao quý của Truyền Thống Văn Hóa. Hơn nữa, một khi gặp
phải kẻ khác xuyên tạc, họ lại xem thường và thiếu tâm thành trong sự Cúng Bái
là hành động mê tín dị đoan.
Con
người mỗi khi làm điều gì bị bắt buộc nếu như không hiểu ý nghĩa về việc mình
đang làm thì xem như bị một hình phạt đau khổ rất lớn. Nhất là đối với những
kẻ có học thức, có trình độ Văn Hóa cao, họ đòi hỏi phải hiểu tường tận và cụ
thể những sự việc mà họ phải làm. Không ai có thể bắt buộc họ làm những việc mà
họ không hiểu. Đúng ra, họ rất muốn học hỏi và tìm hiểu tất cả những gì có tánh
cách Tín Ngưỡng và Văn Hóa, nhưng không được ai giải thích vấn đề cho rõ ràng
và thực tế. Nguyên do kẻ trên trước đã không hiểu Văn Hóa và Tín Ngưỡng thì
đâu thể nào giải thích cho hậu lai được thông suốt. Cũng từ đấy, một số người
lầm lạc khinh thường sự Cúng Bái và tỏ thái độ thiếu Lễ Nghi cung cách với bề
Trên mà thật ra họ rất cần đến sự giao cảm giữa Tâm Linh của họ với Tâm Linh
của các bậc Tiền Nhân qua sự nguyện cầu. Vì lẽ không hiểu, đôi khi họ mượn
duyên cớ Cúng Bái làm bình phong nhằm mục đích họp bạn ăn uống vui chơi hơn là
tưởng niệm để tri ân và báo ân. Họ không thể nào tin được có Ông Bà hay Thần
Thánh đến hưởng đồ Cúng Bái. Giả sử trong khi Cúng Bái, con cháu nhìn thấy được
Ông Bà hay Thần Thánh hiện nguyên hình đến ăn uống giống như người sống thì
lúc đó họ sẽ đau khổ cực độ vì quá hoảng sợ mà con cháu lại tưởng ma quỷ hiện
và sẽ đốt nhà bỏ đi nơi khác. Nguyên do Ông Bà hay Thần Thánh không còn hình tướng
giống như người sống bình thường nữa.
Trên
thực tế, có những hiện tượng mà chúng ta bất lực trên lãnh vực quan sát. Chúng
ta chỉ hiểu biết những hiện tượng đó trên bình diện giả thuyết để tìm đáp số
cho đức tin. Chúng ta không thể nào nhìn thấy điện thể trong không gian bằng sự
quan sát. Chúng ta chỉ nhìn thấy điện trên lãnh vực tác dụng. Nhưng điện tác
dụng không phải là điện thể mặc dù điện tác dụng được phát sanh từ điện thể
trong không gian. Hơn nữa chúng ta chỉ nhìn thấy sự vật bên ngoài bằng Ảnh Tử
(Cause’s Images of Illusions) ảo giác méo mó và không thể nào nhìn thấy mọi vật
đúng với giá trị và ý nghĩa của nó, nếu như không đặt quan niệm thương ghét
vào. Giả như chúng ta nhìn sự vật trên quan niệm thương ghét thì thấy vạn
pháp càng méo mó hơn. Chúng ta làm sao cụ thể hóa được toàn diện về phần vật
lý những thế giới siêu hình theo sự mong muốn. Khác nào chúng ta nếu như có
thể thì cũng chỉ hiểu biết được những chúng sanh hiện hữu trong phạm vi Thái Dương
Hệ (Solar- Systems) này mà thôi và ngược lại không thể nào biết được những
chúng sanh hiện hữu trong các Thái Dương Hệ khác ngoài Thế Giới chúng ta đang
sống. Tại sao thế? Nguyên do chúng ta là con người hiện đang sống trong Thế
Giới gọi là Ngoại Giới có hiện tướng (Thế Giới hiện hình tướng ra bên ngoài)
hoàn toàn lệ thuộc vật chất thì không thể nào thấy được chúng sanh đã và đang
sinh hoạt trong những Thế Giới có tánh cách Nội Giới không hiện tướng. Chúng
sanh trong những Thế Giới Nội Giới không hiện tướng đều được xây dựng nên bởi
Tâm Thức và chúng nó thì không bao giờ bị lệ thuộc chút nào về vật chất cả, mặc
dù những Thế Giới Nội Giới vô hình này và những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình
kia rất tương quan chặt chẽ với nhau trong sự duyên sanh. Những Thế Giới Nội
Giới vô hình kia nếu như không có thực chất để làm Nhân thì những Thế Giới
Ngoại Giới hữu hình này nhất định không thể thành lập để làm Quả. Trường hợp
đây cũng giống như Điện Thể không gian ở trạng thái không hình tướng (Trạng
thái không có hiện tướng) nếu như không thật chất để làm Nhân thì Điện Dụng
(Điện đã tác dụng) sấm chớp ở trạng thái có hình tướng (Trạng thái có hiện tướng)
nhất định không thể phát sanh để làm Quả. Thể và Dụng, Nhân và Quả là hai trạng
thái rất quan hệ với nhau một cách chặt chẽ không thể tách rời trong chiều hướng
duyên sanh để thành hình vạn pháp. Chúng ta chỉ biết được vạn pháp từ nơi
thành Quả, từ nơi tác dụng hiện tướng và ngược lại chúng ta không thể nào
quan sát được vạn pháp ở trạng thái Nguyên Nhân cũng như ở trạng thái Thể
Tĩnh không hiện tượng. Hơn nữa, con người nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang
(Lenz-lights) chiếu soi. Nhãn Quang nếu như không chiếu soi thì con người
không thể nhìn thấy vạn pháp. Nhưng Nhãn Quang lại bị ảnh hưởng nơi Nhãn Căn
(Giác quan con mắt) cho nên chiếu soi không được tinh nhuệ. Trường hợp này
cũng giống như dòng điện bị ảnh hưởng bóng đèn nên phát ra ánh sáng không được
đúng độ. Vã lại, Nhãn Quang bị ràng buộc quá nhiều bởi ánh sáng mặt trời. Do đó
con người không thể nhìn thấy rõ sự vật về đêm. Ngược lại, một số loài động
vật như con mèo, con chó v.v... cũng nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang của
chúng.
Nhưng
Nhãn Quang của những loài động vật nói trên không lệ thuộc bởi ánh sáng mặt
trời và cũng như không bị ngăn cách bởi bóng đêm. Cho nên chúng nó có thể nhìn
thấy những hiện tượng vô hình cả ngày lẫn đêm mà loài người không thể nào biết
được. Nguyên do Nhãn Quang của loài người không phải là Nhãn Quang của các
loài vật kia. Khác nào ánh sáng của mặt trời không phải là ánh sáng của mặt
trăng. Như ánh sáng mặt trời soi vào nhà, chúng ta mới thấy được vô số vi trần
bay khắp nhà xuyên qua ánh sáng. Trái lại, chúng ta nếu như không có ánh sáng
mặt trời chiếu soi thì không thể nào thấy được những vi trần nói trên hiện
đang bay lượn trong không gian. Như vậy, chúng ta mặc dù không nhìn thấy các
chúng sanh của những Thế Giới Nội Giới ở trạng thái vô hình, nhưng đừng vội
cho là chúng nó không có mặt trong vũ trụ bao la.
Vũ
trụ bao la có nhiều Thế Giới thì tất nhiên cũng có nhiều loại không sanh hiện
đang sinh hoạt trong đó. Các nhà Khoa Học chưa khám phá được chúng, nhất là
chưa biết được chút nào về lãnh vực siêu hình. Các nhà Khoa Học chỉ biết lẩn
quẩn trong Thái Dương Hệ (Solar-system) có vật chất này mà thôi và cũng chưa
biết rõ tất cả Hành Tinh hiện có mặt trong không gian. Trong không gian bao la,
Thế Giới này được kết hợp bởi những nguyên liệu không giống nhau như những
Thế Giới khác, thành thử chúng sanh ớ Thế Giới này không thể sinh hoạt nơi
những Thế Giới khác và hình tướg của họ cũng không giống nhau với các Thế Giới
khác. Tương tợ như khối nước chính là Thế Giới của loài cá và không khí chính
là Thế Giới loài ngời. Khối nước và không khí khác nhau cho nên loài người
không phải là loài cá. Vì thế loài cá không thể sống trong Thế Giới của loài
người và ngược lại, loài người cũng không thể sống được dưới nước giống
như loài cá sinh hoạt.
Theo
Phật Giáo, vũ trụ bao la có hằng hà sa số Thế Giới, nghĩa là Thế Giới nhiều như
hạt cát của sông Hằng (sông Gange), trong đó chúng rất quan hệ từng loại với
nhau, đức Phật phân chia chúng thành ra ba nhóm khác nhau theo sự quan hệ nói
trên. Ba nhóm Thế giới gồm có: Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.
1 Dục Giới: là những Thế Giới
mà chúng sanh sống trong đó đều do ái dục cực thịnh tạo thành. Những Thế Giới
này gồm có: Thế Giới loài người, Thế Giới Địa Ngục, Thế Giới Ngạ Quỷ và Thế
Giới Bàng Sanh (Súc Sanh).
2. Sắc Giới: là những Thế Giới
mà chúng sanh sống trong đó cũng do ái dục và dục tưởng kết hợp
sắc chất tạo thành. sắc Chất ở đây thuộc thanh khí của Sắc Ấm một trong năm ấm
tạo thành Thân Thể và Thế Giới của Sắc Giới. Sắc Chất này không phải Trược Khí
của Sắc Uẩn, một trong Năm Uẩn tạo thành Thân Thể vâ Thế Giới của Dục Giới. Sắc
Uẩn thì nhơ nhớp tanh hôi. Còn Sắc Ấm thì trong suốt giống như chất pha lê.
3. Vô Sắc Giới: là những Thế Giới
mà chúng sanh sống trong đó chỉ do Nghiệp Thức kết thành Thân Thể và Thế Giới.
Những Thế Giới này muốn thấy được phải nhờ đến Phật Nhãn mới quán thông. Mắt
thịt của chúng ta không thể nào biết được họ sinh hoạt trong những Thế Giới
này.
Loài
người còn không thể thấy được sự sinh hoạt, cách ăn uống của các chúng sanh
trong những Thế Giới Địa Ngục, Ngạ Quỷ và A Tu La v.v. . . thuộc về cõi Dục thì
làm sao biết được những chúng sanh trong các cõi Vô Sắc.
Hiện
tượng trong thế gian cho chúng ta nhận thức rằng, con người sinh hoạt thường
lệ thuộc quá nhiều nơi ánh sáng mặt trời cũng như ánh sáng đèn cho nên không
thể biết được những gì thuộc về bóng đêm, nghĩa là con người muốn nhìn thấy được
sự vật phải nhờ đến ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn chiếu soi. Ánh sáng mặt
trời hoặc ánh sáng đèn nếu như không soi sáng thì con ngời không thể nhìn
thấy được những sự vật của bóng đêm mặc dù những sự vật của bóng đêm vẫn hiện
có mặt trong thế gian. Ngược lại, những chúng sanh bị lệ thuộc bóng đêm thì
không thể biết được những gì của ánh sáng ban ngày, nghĩa là chúng nó chỉ nhìn
thấy được những sự vật thuộc về ban đêm. Như con chim vạc, con rắn lục, con
chim quốc v. v... chỉ nhìn thấy được những sự vật của bóng tối thuộc về ban đêm
và chúng nó không thể nhìn thấy được những sự vật của ánh sáng thuộc về ban
ngày giống như con người. Còn những chúng sanh không bị lệ thuộc bởi ánh sáng
mặt trời cũng như không bị lệ thuộc bởi bóng tối thì có thể nhìn thấy những sự
vật của ban ngày và những sự vật của ban đêm. Như con mèo, con chó v.v... có
thể nhìn thấy những sự vật cả ngày lẫn đêm không bị ngăn cách, nghĩa là bóng
tối và ánh sáng mặt trời không trở ngại cho sự sinh hoạt của chúng. Trường hợp này cũng tương tựa như
loài cá sống trên đất liền thì bị chết khô và loài người sống dưới nước thì
bị chết ngạt.
Ngược
lại loài rùa thì sống trên bờ hay sống dưới nước đều không bị trở ngại. Sự ăn
uống của những chúng sanh trong các cõi khác cũng thế.
Chúng
sanh đã có sự sống thì nhất định phải có sự hưởng thụ, nghĩa là họ phải có sự
ăn uống và sinh hoạt để tồn tại. Nhưng sự ăn uống của họ không giống như sự
ăn uống của loài người. Sự ăn uống của họ tùy theo nghiệp quyết định.
Thí dụ: Cùng một loại Thủy Tộc
chuyên sống dưới nước như nhau,có giống thích ăn thịt như là Cá Mập, có
giống chuyên ăn nhớt như là Cá Nược và có giống chỉ biết ăn rong nước như là
Cá Cơm v.v...
Đức
Phật nói: “Chúng sanh tùy nghiệp nhi thực” nghĩa là chúng sanh do bởi
nghiệp sai biệt nên ăn uống không giống nhau. Theo Phật Giáo, chúng sanh trong
các cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới có nhiều cách ăn. Những cách ăn của
chúng sanh trong ba cõi được chia thành chín loại khác nhau, gọi là Cửu Thực.
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa và giá trị chín cách ăn nói trên.
D/. VẤN ĐỀ ĂN:
Ăn,
tiếng Trung Hoa gọi là Thực, tiếng phạn và tiếng Pali gọi chung là ÀHÀRA, nghĩa
là duy trì và nuôi dưỡng Thân Thể xác thịt của chúng sanh hoặc Pháp Thân của
các Thánh Nhân để hình thái được tồn tại, để tinh thần được nẩy nở và phát
triển lâu bền. Trong ba cõi, những thực vật để nuôi lớn Thân Thể xác thịt thì
gọi là món ăn của thế gian. Còn những thực vật dể nuôi lớn Pháp Thân Trí Tuệ
Giác Ngộ thì gọi là món ăn của xuất thế gian. Thế Gian ăn có bốn cách và Xuất
Thế Gian ăn có năm cách. Bốn cách ăn của Thế Gian cộng với năm cách ăn của Xuất
Thế Gian gọi chung là chín cách ăn. Trước hết chúng ta tìm hiểu bốn cách ăn
của Thế Gian. Bốn cách ăn này được Kinh Tăng Nhứt A Hàm quyển 41 giải thích như
sau:
Tứ Thực: (Nghĩa là bốn cách
ăn của thế gian tiếng Phạn là Catvàra-àhàràh, hoặc Ahàracatuska. Tiếng Pali là
Cattàro- àhàra). Bốn cách ăn này nhằm mục đích nuôi lớn Sắc Thân sanh tử trong
thế gian. Bốn cách ăn của Thế Gian gồm có: Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực và
Thức Thực. Hình thức bốn cách ăn được giải thích như sau:
1/. ĐOẠN THỰC: (Tiếng Phạn là:
Kavadim=Kàràhàra, Kavlì-kàràhàra. Tiếng Pali là: Kabalinkàràhàra). Đoạn Thực
còn có tên là Đoàn Thực, Kiến Thủ Thực và còn có tên nữa là Tuy Thực. Ý nghĩa
của những tên này được giải thích nh sau:
a. Đoạn Thực: nghĩa là chia lương
thực ra từng đoạn, từng phần để ăn nên gọi là Đoạn Thực.
b. Đoàn Thực: nghĩa là nắm đồ ăn
vo tròn đưa vào miệng để ăn nên gọi là Đoàn Thực. Đây cách ăn của người An Độ
thời xưa dùng tay nắm vắt đồ ăn bóc đưa vào miệng.
c. Tuy Thực: nghĩa là vò nát đồ
ăn hoặc bẻ ra từng mảnh để ăn nên gọi là Tuy Thực.
d. Kiến Thủ Thực: nghĩa là cầm lấy
đồ ăn đưa vào miệng nên gọi là Kiến Thủ Thực. Bốn hình thức ăn vừa giải thích
đều nằm trong ý nghĩa của Đoạn Thực được nêu ở trên. Theo Phật Học Đại Từ Điển
quyển 4, Trang 3997-3998 Đoạn Thực được giải thích như sau:
ĐOẠN THỰC: nghĩa là ăn uống bằng cách lấy
mùi hương, chất vị và tinh thể của xúc trần nơi sắc pháp để tươi nhuận và bổ
ích cho các Căn trong thân thể nên gọi là Đoạn Thực. Đoạn Thực có hai phần:
Phần Thô và Phần Tế.
a. Phần Thô: (Tiếng Phạm là
Odàrika. Tiếng Pali là Olària), nghĩa là thể chất của thực vật phổ thông để ăn
được nằm trong cơm, trong miến, trong cá, trong thịt.
b. Phần Tế: (Tiếng Phạm là
Sùksma. Tiếng Pali là Sukhuma), nghĩa là các thứ để uống và các mùi thơm như
là hương, dầu, sinh tô v.v... Nói tóm lại Đoạn Thực nghĩa là ăn bằng cách dùng
tay đem đồ ăn đưa vào miệng để nuôi dưỡng Thân Thể, như loài người ăn
v.v...
2/.
XÚC THỰC:
(Tiếng Phạm là Spar-sàkàràhàra. Tiếng Pali là phassà- Kàràhàra), cũng gọi là
Lạc Thực và Ôn Thực.
a. Xúc Thực: nghĩa là Khí quản
cảm giác xuyên qua tinh thần làm chủ thể tức là Tâm tác dụng tiếp xúc ngoại
cảnh liền sanh ra cảm giác và ý chí để bồi dưỡng và nuôi lớn Nhục Thân nên gọi
là Xúc Thực. Nói cách khác, Xúc Thực nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng thay thế
tay chân tiếp xúc thẳng lương thực không qua trung gian đưa vào, như cách ăn
theo kiểu heo, gà, chó v.v...
b. Lạc Thực: nghĩa là Tâm Sở
xúc khi tiếp xúc trực tiếp với cảnh vật đối tượng liền phát sanh hỷ lạc ưa
thích để nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Lạc Thực. Như người mê xem hát suốt
ngày mà không cảm thấy đói.
c. Ôn Thực: nghĩa là như chim
Khổng Tước, chim Anh Vũ v.v... khi sanh Trứng xong, liền đích thân trực tiếp
ấp Trứng cho đến khi nào Trứng nở thành con mới thôi. Chúng ấp Trứng nhầm mục
đích nuôi dưỡng sức ấm để sanh Lạc Xúc và Trứng nhờ đó mới nẩy nở thành con,
nên gọi là Ôn Thực. Con người tắm rửa, mặc áo cũng gọi là Xúc Thực.
Nói
tóm lại, căn cứ nơi nghiệp lực của chúng sanh mà nhận xét, Xúc Thực ở đây có
nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng tiếp xúc thẳng lương thực mà không dùng đến
tay chân mang thức ăn vào miệng giống như cách ăn của loài ngời.
3/. TƯ THỰC: (Tiếng Phạm là
Manah-Samce=Tanàkàràhàra. Tiếng Pali là Mano
Sance=Tanàkàràhàra), cũng gọi là
Tác ý Tư Thực (Ý Thực), Niệm Thực (Ý Niệm Thực), Ý Chí Thực, Nghiệp Thực,
nghĩa là tác dụng của ý Chí (Tư) mong cầu cho mình được trạng thái tốt đẹp và
tồn tại tức là trạng thái sanh tồn được kéo dài nên gọi là Tư Thực. Nói cách
khác, Ý Thức thứ sáu đối với cảnh sở duyên liền phát khởi tư tưởng mong muốn
và phát sanh Ý Niệm hy vọng các Căn (giác quan) được tiếp tục thêm lớn. Luận
Thành Thật cho là “Tư nghiệp hoạt mạng”, nghĩa là do Nguyện Lực của tư
tởng khiến cho Mạng Căn sinh hoạt. Còn Đại Thừa Nghĩa Chương, tiết mục Đại
44, trang 620 giải thích rằng: “Do Tư Nghiệp của quá khứ khiến Mạng Căn
tiếp nối không dứt, nên gọi là Tư Thực. Như thế, tất cả chúng sanh có sanh
mạng đều do tư tưởng ở quá khứ tạo nên, hoặc mang sống của họ đều do tư tưởng
hiện tại tạo thành nên gọi là Tư Thực”.
4/.
THỨC THỰC: (Tiếng Phạm là Vi-jnànàkàràhàra. Tiếng Pali là Vinnànà-
kàràhàra), nghĩa là Tâm Thức hữu lậu nương nhờ nơi Thức Alaya làm thể và ỷ lại
vào thế lực của ba cách ăn ở trước để cồ thể tạo tác quả báo cho kiếp sau nhầm
mục đích duy trì thân mạng của chúng sanh hữu tình không cho hư hoại, nên gọi
là Thức Thực. Chúng sanh hữu tình trong các cõi Vô Sắc và Địa Ngục thường dùng
cách ăn này nên gọi là Thức Thực.
Trong
bốn cách ăn nói trên, Tâm Thức sinh hoạt một cách linh diệu để duy trì vạn pháp
được tồn tại trong thế gian nên gọi là Thức Thực. Xúc Thực Tư Thực và Thức
Thực đều thông cả ba cõi, nghĩa là chúng sanh hữu tình trong ba cõi phần nhiều
sử dụng ba cách ăn này nên gọi là thông cả ba cõi. Riêng Đoạn Thực chỉ hạn cuộc
trong cõi Dục, nghĩa cách ăn này chỉ dành riêng cho các chúng sanh hữu tình
trong cõi Dục sử dụng nhiều hơn.
Có
thể nói, Thức Thực là cách ăn bằng Tâm Thức và lương thực để cho Tâm Thức sử
dụng chính là hương vị của các pháp. Riêng những người bị chết, sau khi bỏ
Thân Thể xác thịt hôi tanh liền nương tựa nơi Thân Thể bằng Tâm Thức nên gọi
là Thức Thân và cũng gọi là Thân Trung Ấm. Những người mang Thức Thân thì họ
ăn bằng cách Thức Thực và lương thực của họ nuôi sống chính là hương vị của
những đồ cúng tế mà phần đông những chúng sanh trong các cõi Đia Ngục, Ngạ Quỷ,
A Tu La và cõi Trời thuộc Dục Giới đều thọ hưởng.
Như
chúng ta đã biết sự ăn uống của chúng sanh hữu tình trong năm cõi (Cõi Trời,
cõi Ngời, cõi Địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh) sở dĩ khác nhau chính là do
bởi chúng có nhiều hình thái được sanh ra từ nơi bốn loại không giống nhau
(loại sanh ra bằng trứng, loại sanh ra bằng bào thai, loại sanh ra bằng chỗ ẩm
thấp và loại sanh ra bằng sự chuyển hóa từ hình tướng này sang hình tướng
khác). Do đó so với các bậc Thánh Nhân, bốn loại chúng sanh nói trên đều thuộc
hạng phàm phu và chúng ăn uống cũng khác với sự ăn uống của các bậc Siêu Đẳng.
Bốn cách ăn này của bốn loại chúng sanh hữu tình trong năm cõi cũng gọi là Bất
Tịnh Thực (Cách ăn không trong sạch).
Khác
hơn bốn cách ăn của các hàng phàm phu, năm cách ăn của các bậc Thánh Nhân được
gọi là Thanh Tịnh Thực (Năm cách ăn rất trong sạch) và cũng gọi là Xuất Thế
Gian Thực (Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian). Đây là năm cách ăn của các
đức Phật, của các vị Bồ Tát, các vị Duyên Giác và các bậc Thinh Văn thường sử
dụng. Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian gồm có:
1. Thiển Duyệt Thực: nghĩa là Hành Giả
dùng phương pháp Thiền để bố ích Tâm Thần, tức là những vị ấy hưởng đặng cái
vui trong Thiền Định, nên gọi là Thiền Duyệt Thực.
2. Pháp Hỷ Thực: nghĩa là Hành Giả
khi nghe pháp liền sanh tâm hoan hỷ, khiến tăng trưởng thiện căn và lợi ích huệ
mạng, nên gọi là Pháp Hỷ Thực.
3. Nguyện Thực: nghĩa là Hành Giả
vì muốn cứu độ chúng sanh đoạn trừ phiền não sớm chứng quả Bồ Đề nên phát
nguyện rộng lớn duy trì bản thân để thường tu vạn hạnh, nên gọi là Nguyện.
4. Niệm Thực: nghĩa là Hành Giả
sau khi an định được Tâm ý, thường ghi nhớ mãi những thiện pháp Xuất Thế mà
mình đã chứng đắc không bao giờ quên, nên gọi là Niệm Thực.
5. Giải Thoát Thực: nghĩa là Hành Giả
khi tu hạnh Thánh Đạo Xuất Thế của bậc Thánh Nhân đã đoạn được sự trói buộc
của Nghiệp Phiền Não và không còn thọ nhận sự bức bách hay bị chi phối bởi khổ
sanh tử nên gọi là Giải Thoát Thực.
Đây là danh xưng năm cách ăn của các bậc
Xuất Thế Gian. Năm cách ăn này được thiết lập là căn cứ nơi Pháp Hỷ của năng
lực Thiền Định, của năng lực Chánh Nguyện, của năng lực Chánh Tư Duy làm nền
tảng. Hành Giả nhờ năng lực Thiền Định, năng lực Chánh Nguyện và năng lực Chánh
Tư Duy sau khi đoạn được phiền não và được học hỏi Phật Pháp liền sanh ra
Pháp Hỷ. Pháp Hỷ thường nuôi dưỡng sanh mạng và bảo trì hạt giống Trí Tuệ,
nên gọi là Thực.
Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian cộng
chung với bốn cách ăn của Thế Gian nói trên trở thành chín cách ăn, gọi là Cửu
Thực. (Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 28 và Kinh Tăng Nhứt A Hàm, quyển 41).
E/. CÁCH ĂN CỦA TỔ TIÊN
ÔNG BÀ:
Thế thì Tổ Tiên, Ông Bà ăn như thế nào?
Như
đã trình bày ở trên, Tổ Tiên, Ông Bà có thể ăn uống thường gọi là Hưởng Thực
nghĩa là ăn bằng cách Thức Thực những hương vị của món đồ mà con cháu dâng
cúng và nếu như không có món đồ dâng cúng thì làm sao có hương vị để cho Tổ
Tiên, Ông Bà hưởng thực.
Sở
dĩ sự hưởng thực của Ông Bà không giống như sự ăn uống của loài người, nguyên
vì các vị ấy không còn mang tấm thân xác thịt như loài người và cũng không còn
sống trong thế giới loài người. Họ chết, nghĩa là họ bỏ lại tấm thân xác thịt
bằng chất liệu máu huyết tanh hôi của cha mẹ. Họ chỉ còn lại thân thể bằng Tâm
Thức, gọi là Thức Thân và cũng gọi là Trung Ấm Thân hay Danh Thân. Đã là Thức
Thân sống trong thế giới nội Tâm không hiện tướng thì sự ăn uống của họ chỉ
bằng Tâm Thức nên gọi là Thức Thực và lương thực của họ sống chính là Hương Vị
của vạn pháp, thường gọi là Dưỡng Khí. Thức Thân là thân thể thuộc trạng thái
vô hình không thể dung chứa những vật chất thuộc hữu tình, cho nên họ không thể
hưởng đồ ăn bằng vật chất giống như sự tăn uống của loài
người. Đến khi nào đi đầu thai thọ thân kiếp sau, họ kết hợp với sắc chất tức
là tinh cha huyết mẹ để thể hiện Thức Thân nói trên trở thành Nhục Thân hiện
tướng thì chừng đó họ có thể ăn uống những vật chất vào giống như sự ăn uống
của loài người. Hoặc họ sanh vào những cõi khác, ngoài Thế Giới loài người thì
sẽ ăn uống theo cách của chúng sanh ở những cõi đó.
Hơn
nữa, Tổ Tiên Ông Bà đã đi đầu thai vào Thế Giới nào khác từ lâu, vậy chúng ta
cúng kỵ có ý nghĩa gì? Trường hợp này chúng ta cúng kỵ có hai ý nghĩa:
a. Ý nghĩa thứ nhất, chúng ta cúng kỵ nhằm
mục đích tri ân và báo ân những đấng sanh thành đã từng hy sinh tạo nên chúng
ta cũng như gầy dựng nên giòng họ Tông Môn của Gia Phả mình. Đồng thời chúng
ta giáo dục con cháu thiêng liêng hóa Tông Đường để tiếp nối sự nghiệp hiển
vinh giòng họ Nội Ngoại hai bên. Không khác nào Dân Tộc Việt Nam mỗi năm thường
làm lễ kỷ niệm Quốc Tổ Hùng Vương để nhắc nhở giống nòi đừng quên cội mất
nguồn. Cũng như Tín Đồ làm lễ kỷ niệm Phật Tổ hay Thánh Chúa là để hình ảnh
thiêng liêng đó ăn sâu vào tâm khảm của mỗi Tông Đồ.
b. Ý nghĩa thứ hai, chúng ta cúng kỵ với
giá trị là sử dụng năng lực tâm linh thành kính của mình biến hương vị lương
thực hiến cúng thành dưỡng khí và chuyển dưỡng khí đó thành chất liệu dưỡng
sinh để mang đến cho người mình cúng qua hệ thống tâm linh. Người mình cúng ở
cõi khác tự nhiên được nhiều sự may mắn không biết từ đâu đến mà người đời
thường gọi là được phước đức ông bà. Trờng hợp này cũng tương tợ như bóng
đèn điện đã bể, chúng ta thay vào đó một cái quạt máy. Hình thức quạt máy hoàn
toàn không phải là hình thức một bóng đèn. Giờ đây chúng ta tăng sức dòng điện
cho đường giây bóng đèn cũ thì trên thực tế quạt máy tự nhiên được ảnh hưởng
ngay. Người mình cúng tuy không còn là hình thức ông Bà, nhưng Tâm Linh của
họ vẫn cùng một dòng Tâm Linh với Tổ Tông không khác. Chúng ta tăng năng lực
cầu nguyện trên đường giây Tâm Linh dòng họ thì người mình cúng sẽ được ảnh
hưởng ngay. Giá trị này cũng giống như chúng ta đánh Fax hay gọi Điện-thoại
viễn liên thay vì điện tử qua hệ thống Tâm Linh rất linh diệu vô cùng, ảnh hưởng
đến người mình gọi.
Tóm
lại, Tổ Tiên Ông Bà và Nghiệp Lực thọ sanh vào những Thế Giới vô hình thì sự
sinh hoạt ăn uống của họ chỉ bằng Thức Thực không giống như sự ăn uống của
loài người và con cháu cúng dường là đem hương vị của món đồ dâng lên thành
kính tưởng niệm để tri ân và báo ân. Đó là cách ăn uống của Tổ Tiên Ông Bà
theo quan niệm Phật Giáo.
G/. CÁCH CÚNG
Cúng phải có quy cách của cúng tế, nghĩa
là cách thức cúng tế đã được quy định trong Nghi Lễ, như Nghi Lễ của Quốc Gia
gọi là Quốc Cách, Nghi Lễ của Quân Đội gọi là Quân Cách, Nghi Lễ của Tôn Giáo
gọi là Tôn Giáo Cách v.v...
Người
kế thừa trong sự cúng bái nếu như thiếu Nghi Lễ quy cách chính là thiếu cung
cách trong việc cúng tế, tức là người đó đã phạm lỗi với các bậc Thánh Hiền
đáng tôn kính. Theo Kinh Di Giáo, người cúng dường trước hết sử dụng thân
thể cũng như hành vi làm chủ yếu và sau đó họ sử dụng tinh thần để giao cảm.
Cho nên họ phải thể hiện được hai đức tánh: Thân Cúng Dường và Tâm Cúng Dường.
a. Thân Cúng Dường: nghĩa là người
cúng dường phải dâng cúng những lễ vật như đồ ẩm thực, y phục, thuốc thang
v.v... lên cho Tam Bảo, cho Sư Trưởng, cho Cha Mẹ, cho Hương Linh v.v... một
cách tâm thành, gọi là Thân Cúng Dường.
b. Tâm Cúng Dường: nghĩa là người
cúng dường cảm thấy tâm không nhàm chán, không biết đủ, không hối tiếc và tự
tại trong hành động, gọi là Tâm Cúng Dường.
Cũng từ ý nghĩa này, Quy Cách của Phật
Giáo có hai phương thức cúng là Sự Cúng và Lý Cúng.
1/.
SỰ CÚNG:
Những
lễ vật hiến cúng lên bàn thờ chính là hình thức biểu tượng lòng chí thành của
một người con, của một Tín Đồ dâng trọn niềm tin lên Tổ Tiên Ông Bà, lên Thánh
Hiền và lên Chư Phật. Họ dâng hiến lễ vật là mong nhờ Tổ Tiên Ông Bà và Thánh
Hiền Chư Phật đoái tưởng ấn ký, gọi là chứng minh cho tất lòng chí thành biết
ơn của kẻ dưới. Nếu như không có lễ vật biểu tượng thì không thể hiện được
lòng chí thành của mình đối với những bậc thâm ân mà mình tôn kính. Cũng như
nếu không có Thiệp (Card) chúc tết hoặc lời chúc tụng thì không thể nào tỏ bày
được lòng thành của mình đối với người mình chúc tụng. Nhờ sự tướng (hình
thức) hiển bày được nguyên lý, nhờ hình tướng hiển bày được thể tánh, nghĩa
là sự tướng nếu như không có thì không thể hiện được lý tánh. Sự và Lý cũng
như Tướng và Tánh đều dung thông với nhau không ngăn ngại. Kinh Hoa Nghiêm có
câu: “Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới”, nghĩa là Lý Tánh nhờ Sự Tướng được
hiển bày và Sự Tướng nhờ Lý Tánh được thành hình. Sự Lý không thể rời nhau được
để thành lập. Vạn pháp tuy có tướng trạng khác nhau, nhưng đều cùng chung một
bản thể.
Người
có lòng chí thành thì dù hột muối cắn làm hai đem dâng cúng lên bề trên cũng có
giá trị và ngược lại. Người không có lòng chí thành thì mặc dù đem mâm cao cỗ
đầy cũng không có ý nghĩa, đúng như câu: “Phật tức tâm, Phật chứng tại tấm
lòng, tâm tức Phật lòng thành có Phật”.
2/.
LÝ CÚNG:
Lý Cúng Dường nghĩa là thể hiện được
chân lý đã chứng nhập đem ra cúng dường, nên gọi là Lý Cúng. Kinh Phổ Hiền,
Phẩm Hạnh Nguyện nói Cúng Dường có ba ý nghĩa:
a. Tài Cúng Dường: nghĩa là dùng những hoa
quả, tiền của châu báu thường dùng trong thế gian đem ra cúng dường.
b. Pháp Cúng Dường: nghĩa là đem tâm
Bồ Đề làm lợi ích cho mình và lợi ích cho mọi người để cúng dường.
c. Quán Hạnh Cúng Dường: nghĩa là thật hành
pháp quán để nhận thấy vạn vật khắp trong ba cõi đều dung thông với nhau, tức
là thật hành phương pháp quán chiếu về “Sự sự vô ngại pháp giới” của
Kinh Hoa Nghiêm để cúng dường.
Kinh Thập Địa Luận, quyển 8 nói: Cúng dường
có 3 cách:
a. Lợi Dưỡng Cúng Dường: nghĩa là chỉ dùng các
thứ y phục, ngọa cụ v.v... để cúng dường.
b. Cung Kính Cúng Dường: nghĩa là tỏ lòng
thành bằng cách dâng hương hoa, tràng phang bảo cái v.v...để cúng dường.
c Hạnh Cúng Dường: nghĩa là tiến tu
đạo nghiệp về các hạnh, như Tín Hạnh, Giới Hạnh v.v... để cúng dường.
Pháp Hoa Văn Cú quyển 8 nói rằng: dùng Tam
nghiệp cúng dường. Tam nghiệp cúng dường như là:
a. Thân Nghiệp Cúng Dường: nghĩa là dùng thân
này chí thành lễ bái, kính ngưỡng các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
b. Khẩu Nghiệp Cúng Dường: nghĩa là dùng lời
nói ca tụng khen ngợi công đức của các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
c. Ý Nghiệp Cúng Dường: nghĩa là dùng tâm
ý đoan chánh tưởng niệm đến Tướng Hảo Trang Nghiêm của các đức Phật, các vị
Bồ Tát để cúng dường.
Với
tinh thần Lý Cúng vừa trình bày trên, chúng ta luôn luôn noi gương tốt của các
bậc Tiền Nhân Thánh Đức, của Tổ Tiên Ông Bà, cố gắng ngăn ngừa các điều tội ác
nguyện làm các việc phước lành, giữ gìn thân tâm cho trong sạch, trong sạch từ
thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm, để xứng đáng danh nghĩa con
cháu yêu quý của dòng họ của Tông Môn, để làm gương mẫu tốt trong xã hội.
Chúng ta thể hiện được tinh thần cao đẹp vừa nói trên để cúng dường lên Tổ
Tiên Hiền Thánh, ngưỡng mong các bậc tôn vinh trên chứng minh vâ gia hộ, đó là
ý nghĩa của Lý Cúng.
Theo
quy cách của Phật Giáo, con cháu mỗi khi cúng kỵ Ông Bà hay Thánh Hiền phải hội
đủ những điều kiện sau đây:
a. Phải có lòng thành kính đối với bậc
trên trước mà mình cúng bái, nghĩa la không phải cúng bái với mục đích họp bạn
ăn uống vui chơi.
b. Phải trang nghiêm thanh tịnh trong lúc
cúng tế, nghĩa là trong lúc cúng tế không được tổ chức ca múa hát xướng như
một hí trường.
c. Phải có ba chén cơm, ba chung nước
thanh khiết và ba đôi đũa hoặc ba muỗng nĩa cùng với hơng đèn hoa quả v.v...
Đó là điều kiện cần thiết trong khi cúng. Còn các thức ăn khác thêm bớt là tùy
theo hoàn cảnh của mỗi gia chủ.
d. Tất cả con cháu trong gia đình đều phải
quỳ xuống, im lặng, chắp tay hướng về bàn thờ Tổ Tiên, Thánh Hiền v.v... bày
tỏ lòng chí thành. Lúc đó gia chủ đại diện nguyện hương, vái tên họ, tuổi và
ngày tháng, năm tạ thế của người quá vãng (người đã chết) mà mình cúng kỵ.
Trong khi cha mẹ đang cúng Ông Bà, con cháu không được đùa giỡn làm thiếu lễ
nghi cung cách. Kế đến, tất cả con cháu đều chí thành đọc tụng Thần Chú Chuyển
Lương Thực để Ông Bà thọ hưởng sự cúng dường. Sau cùng tất cả đều lạy ba lễ.
Đây là năm điều căn bản của con cháu mà
bổn phận làm người cần phải nằm lòng trong việc kế thừa sự nghiệp gia bảo của
tiền nhân. Chúng ta tại sao phải có bổn phận và lại còn hãnh diện mỗi khi tổ
chức trọng đại lễ kỷ niệm Hùng Vương, Đức Thánh Trần, Tổng Thống v.v... và còn
đọc tiểu sử ghi công các vị ấy một cách trang nghiêm. Ngược lại, chúng ta tại
sao thiếu bổn phận và lơ là trong việc cúng bái Tổ Tiên là những bậc có công ơn
lớn nhất của Tông Môn của dòng họ mình. Trong Phật Giáo, tội bất hiếu là một
trong năm tội Ngũ Nghịch của Địa Ngục Vô Gián. Chúng ta mang danh là Phật Tử
cần phải biết cung cách Hiếu Hạnh vừa trình bày ở trên đề ngăn ngừa đừng phạm
phải.
H/. PHỤ BẢN:
I/. KHI CÚNG ÔNG BÀ:
Khi cúng ông Bà, con
cháu phải tập họp đầy đủ trước bàn thờ Tổ Tiên và ăn mặc chỉnh tề, im lặng.
Gia Chủ đại diện lên đèn va đọc thầm bài Kệ Đốt Dèn:
KỆ ĐỐT ĐÈN:
Đốt sáng đèn Tâm,
Nguyện cho chúng sanh,
Chiếu tỏa mười phương,
Tẩy trừ mê ám.
Nam Mô Nhiên Đăng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Tiếp theo Gia Chủ đốt ba cây hương và đọc
thầm Thần Chú Đốt Hương:
CHÚ ĐỐT HƯƠNG:
CHÚ ĐỐT HƯƠNG:
Tinh Hương kết vần mây thể,
Thơm khắp ba cõi mười phương,
Năm Uẩn biến thành trong sạch,
Trần ai ba độc thanh lương.
Án Phóng Ba Tra Tá Ha. (3 lần)
Tới cả con cháu đều quỳ
xuống và Gia Chủ đại diện nguyện hương.
KỆ NGUYỆN HƯƠNG:
Đem tất lòng thành kính,
Nguyện kết đài Mây-hương,
Dâng lên khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Cúng Cửu Huyền Thất Tổ,
Nội Ngoại cả hai bên,
Niệm ơn trên hiển linh,
Ứng lòng Từ chứng giám,
Gia hộ đàn con cháu,
Sớm lập Đức bồi Tâm,
Khiến tỏ rạng Tông Môn,
Lưu danh thơm kim cổ.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát. (3 lần)
Kế đến cầu nguyện:
Hôm
nay ngày lành tháng tốt, chính là ngày kỷ niệm (Kể tên họ, tuổi và năm, tháng,
ngày, giờ tạ thế của ngời mình cúng kỵ). Để tỏ lòng tưởng niệm, nhớ nghĩa
thâm ân, gia đình chúng con gồm có........... (liệt kê tên họ) thành tâm sắm
sửa trai nghi, hương hoa, quả phẩm thanh khiết dâng lên, trước hết cúng dường
Cửu Huyền Thất Tổ, Thất Thế Phụ Mẫu, đa sanh Phụ Mẫu, Lục Thân Quyến Thuộc, Nội
Ngoại Hương Linh, trên đến Cao Tằng Tổ Khảo, dưới đến Tử Tôn Tằng Huyền, và
tiếp theo cúng dường Hương Linh (Tên họ người mình cúng kỵ).
Duy
nguyện, chư Hương Linh quang lâm án Tiền chứng minh công đức, gia hộ con cháu
chúng con, tai chướng tiêu trừ, thân tâm hương thới, mạng vị bình an căn lành
tăng trưởng, bốn mùa không còn chút tai ương, tám tiết phước lớn như đông
hải. Gia đình hưng thịnh, quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, cầu chi đều nh ý,
nguyện tất cả đợc tùng tâm.
Nam Mô Linh Tự Tại Bồ Tát. (3 lần)
TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC:
Biến cơm, biến nước
Chơn Ngôn thành tâm trì tụng:
1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa Phạ Lồ
Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha Nga Đa Da,
Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Phạ Phiệt Nhựt
Ra, Hồng. (3 lần)
(Lạy ba lễ là xong)
II/. NGHI THỈNH VONG:
Hương
Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Cuộc đời dâu bể, sớm
còn tối mất tợ chiêm bao, Sống gởi thác về, mau quay đầu trở lại đường xa bến
cũ, Hương Linh giờ đây tỉnh ngộ, Nghe lời triệu thỉnh quang lâm, An tọa trước
bạn hương án trang nghiêm, Xin chứng giám lòng thành của Gia Chủ. U Minh Giáo
Chủ, Bồ Tát hiện thân, Hóa độ khắp chốn cùng nơi, Tiếp dẫn ba đường sáu nẻo,
Lòng từ thương xót, Chí nguyện kiên cường: “Địa Ngục chưa hết chúng sanh,
Ngài thệ không thành Phật quả. Đến khi Địa Ngục không còn, Chừng đó lên ngôi
Chánh Giác”. Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ
Tát, Thương vì Gia Chủ.......... (Kể tên họ con cháu) Tiếp độ Hương Linh.
(Đọc tên người quá vãng), Về nơi Đạo Tràng, Chứng minh công đức.
Nam Mô Địa Tạng Vương
Bồ Tát. (3 lần)
Hương
Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Năm Uẩn giả hợp nên người,
Bốn Đại duyên sanh thành vóc, Bản chất vô thường, Hình hài biến đổi, Chốn phù
sinh mang thân gởi tạm, Đường tội lỗi mình lỡ tạo nên, Hôm nào còn đó, Bữa nay
mất rồi, Thân cát bụi trả về cát bụi, Mượn Ấm Thân nhờ chuyển kiếp sau, Phiền
não trầm luân khổ lụy, Sông mê lặn hụp triền miên, Hương Linh nên tỉnh ngộ,
Thuyền Bát Nhã đợi chờ, Nơi bến Giác mau về cập bến, Nhờ Hào Quang dẫn lối soi
đờng, An nhàn nơi đất Phật, Tĩnh tọa trên tòa Sen, Quan âm, Thế Chí hộ trì,
Giáo chủ Di Đà thọ ký, Liền trở về đây nơi chốn dương trần, Sớm gia hộ cháu
con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư công đức, Tai chớng tiêu trừ, Thân
tâm hương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ương, Tám tiết phước
lớn như đông hải, Gia dình hng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu
chi đều như ý, Nguyện tất cả được tùng tâm.
Nam Mô Linh Tự Tại Bồ
Tát. (3 lần)
Thiền Trà dâng cúng,
Thiền Vị ba chung, Tang Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
Hương
Hoa thỉnh, Nhất Tâm triệu thành, Hương Linh lắng nghe, Nay riêng mình, Giờ đây
bụi trần phủi sạch, Còn gia quyến, âm dương hai ngã cách đôi, Tỏ lòng đạo
nghĩa thâm ân, Con cháu chí thành tưởng niệm, Trước tiên dâng hiến nước Cam
Lồ, Chất liệu tươi nhuận khắp mười phương, Thiền trà Pháp Nhũ, Thiền vị ngát
hương, Gia chủ mong nhờ Thiền Đức, Chuyển lời triệu thỉnh Hương Linh, Khởi
hành từ chốn U Minh, Nương tòa Sen về dương thế, Tĩnh tọa trước Đạo Tràng Hương
án, Nghe kinh và thọ lãnh cúng dường, Do Gia Quyến chí thành dâng hiến, Xin
nguyện Hương Linh (kể tên) hết lòng gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam
nữ, Thừa tư công đức, Tai chướng tiêu trừ, Thân tâm hương thới, Mạng vị bình
an,
Bốn mùa không còn chút tai ương, Tám tiết
phước lớn như đông hải, Gia đình hưng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên,
Cầu chi đều như ý, Nguyện tất cả được tùng tâm.
Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ
Tát. (3 lần)
Thiền Trà dâng cúng,
Thiền Vị ba chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
Hương
Hoa thỉnh Nhất Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Nương Từ Bi vô lượng,
Nhờ Phật Pháp nhiệm mầu, Bao nhiêu quả phẩm Cam Lồ, Lương thực thiết đầy Hương
án, Pháp nhũ mỹ vị tịnh chay, Biến khắp hư không Pháp Giới, Con cháu chí
thành, Hiến dâng cúng bái, Hương Linh nghe lời triệu thỉnh, Về đây thọ lãnh
cúng dường, Đó là món ăn tinh thần, Thanh tịnh huơng thơm Pháp Vị, Xin nguyện
Hương Linh........(kể tên) Sớm được ấm no đầy đủ, Hết lòng gia hộ cháu con,
Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư công đức Tai chướng tiêu trừ, Thân tâm hương
thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ương, Tám tiết phước lớn như
đông hải, Gia đình hưng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều
như ý, Nguyện tất cả được tùng tâm.
Nam Mô Mỹ Hương Trai Bồ Tát. (3 lần)
Thiền Trà dâng cúng,
Thiền Vị ba chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC: Biến
cơm, biến nước Chơn Ngôn thành tâm trì tụng:
1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa Phạ Lồ
Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha Nga Đa Da,
Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Pha Phiệt Nhựt
Ra, Hồng. (3 lần)
Hương
Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Tâm giác ngộ vốn thanh
tịnh, Dứt si mê chứng quả ngay, Có thân có khổ, Có nghiệp chướng có luân hồi,
Không sanh không tử, Không nghiệp chướng không đến đi, Sanh tử đến đi như
giấc mộng, Cuộc đời dâu bể tợ chiêm bao. Hơng Linh đừng luyến tiếc kiếp phù
sinh, Mau thoát khỏi bể khổ đau ái dục, âm Dương tuy hai đường ngăn cách, Nhưng
Thể Tánh chỉ có một Pháp Thân, Mong Hương Linh được nhẹ nhàng, Sanh sang nước
Cực Lạc, của đức Phật A Di Đà, Hiện đang làm Giáo Chủ, Thuyết Pháp độ chúng
sanh, Hương Linh ngồi trên tòa Sen báu, Chí thành chiêm ngưỡng đức Thế Tôn,
Ngưỡng mong đức Phật Từ Bi, Duỗi lòng phóng quang tiếp độ , Hơng Linh siêu
sanh Tịnh Độ, Chứng quả Niết Bàn Vô Dư.
Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ
Tát. (3 lần)
Tóm
lại, vấn đề Cúng là một cung cách rất thiết yếu của người có Tín Ngỡng đối
với Tổ Tiên, đối với Hiền Thánh mà bổn phận làm người không thể thiếu trong
việc cải tiến bản thân, cũng như xây dựng xã hội an lạc thật sự về phương
diện Tâm Linh. Cúng là một hành động tri ân và báo ân Tiền Nhân với mọi hình
thức biểu tượng mà con người ý niệm đợc thâm ân không thể thiếu nghĩa vụ.
Cúng cũng là một phương thức giáo dục con người ý thức Truyền Thống Tổ Tiên,
lý tưởng Giống Nòi và Tín Ngưỡng để họ làm tròn bổn phận làm người. Nhất là
ngời Phật Tử, chúng ta phải cúng, nhằm thể hiện tâm linh để bất cẩu giao cảm
với chư Phật, mong nhờ Tam Bảo gia hộ cho mình được an lành trên con đường
Giác Ngộ và Giải Thoát. Đây là ý nghĩa và giá trị của Cúng Dường. Ý nghĩa và
giá trị Cúng Dường được trình bày qua Sự cũng như qua Lý để làm quy cách căn
bản cho Phật Tử chánh tín hành trì, ngõ hầu giúp đỡ họ sớm kết duyên lành với
chư Phật trong mười phương.
III/. VẤN ĐỀ LỄ BÁI:
Lễ
Bái là một Đạo Nghĩa nhằm tiêu biểu ý chí tôn kính, tưởng niệm đến những ân
đức sâu dày của Tổ Tiên Ông Bà, của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh
Tăng và tự thân Phát nguyện tu tâm luyện trí hầu trở thành ngời hữu ích trong
xã hội để làm tròn bổn phận con cháu của Tông Môn và để xứng đáng là Đệ Tử của
các bậc Thánh Đức. Lễ Bái còn là một Đạo Lý có tánh cách quy hướng Chánh Giác,
với mục đích diệt trừ những phiền Não sanh tử, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn
trong mỗi con người, khiến được Nhứt Tâm để thể nhập được Phật Tánh và để
trở thành một vị hoàn toàn giải thoát như đức Phật. Trước hết muốn thông suốt
ý nghĩa và giá trị của sự Lễ Bái, chúng ta cần phải hiểu qua thế nào là Lễ Bái.
A/.- ĐỊNH NGHĨA:
a. Lễ: là những quy tắc
nhứt định của cung cách qua sự đi, đứng, nói năng trong những Quan Hôn Tang Tế
nhằm thể hiện sù Tôn Kính.
b. Bái: nghĩa là quỳ lạy
bằng cách hạ mình xuống đất tưrớc những bậc Hiền Đức mà mình Tôn Kính.
c. Lễ Bái: tiếng Phạn là
Vandana, Tàu dịch âm là Ban Đàm, còn gọi là Hòa Nam, hoặc gọi là Na Mô Tất Yết
La, nghĩa là lễ nghi cung cách với hình thức cúi đầu quỳ lạy trước những bậc
Tiền Nhân Thánh Đức mà mình đã đặt trọn niềm tin quy ngưỡng hướng về, như
lạy chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, như lạy Cha Mẹ, Thầy Tổ
v.v... Chúng ta quỳ lạy các vị đó nhằm biểu lộ đức tánh khiêm tốn và để tỏ lòng
tri ân, báo ân mà bổn phận kẻ dưới hằng tạc dạ ghi tâm, ân tiên công đức.
Ngoài ý nghĩa thông thường trên, theo Phật Giáo, sự Lễ Bái còn tiêu biểu nhiều
ý nghĩa khác nữa, như tiêu biểu: “Chánh Quán Lễ, Phát Trí Thanh Tịnh Lễ,
Thật Tướng Bình Đẳng Lễ và Biến Nhập Pháp Giới Lễ”. Ý nghĩa của những phương
cách Lễ Bái này sẽ đề cập ở sau.
B/.- NGHI CÁCH VÀ Ý
NGHĨA LỄ BÁI:
Muốn
hiểu ý Nghĩa Lễ Bái, chúng ta trước hết nên hiểu qua cách thức Lễ Bái theo mỗi
Tôn Giáo cũng như mỗi Tông Phái quy định. Tổng quát chúng ta nên hiểu cách
thức Lễ Bái của những Tôn Giáo và của những Tông Phái hên hệ rất gần đối với
chúng ta. Giờ đây chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của Khổng Giáo và Phật
Giáo chủ trương:
C/.- QUAN NIỆM LÊ BÁI:
Mỗi
Tôn Giáo Lễ Bái mỗi cách và mang mỗi ý nghĩa khác nhau, theo sự quy định của
các Giáo Chủ làm cách nào tổ bày được tâm thành của Tín Đồ đối với những bậc
Thánh Đức mà họ quy ngưỡng.
Theo
Truyền Thống Việt Nam, dân tộc ta phần đông chịu ảnh hưởng sâu đậm Văn Hóa của
Khổng Giáo và Phật Giáo, là hai Tôn Giáo có công rất lớn qua quá trình lịch sử
xây dựng đất nước. Mỗi người dân đều chịu ảnh hởng không ít cách Lễ Bái của
hai Tôn Giáo này. Thời xa Vua Chúa đã quy định rõ ràng, mỗi người dân, khi Lễ
Bái Vua, Quan, Hiền Thần, Đình Miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng
Giáo và khi Lễ Bái Phật Trời, Hiền Thánh, Tổ Tiên, Ông Bà v.v... thì phải
áp dụng theo cung cách của Phật Giáo.
Về
sau người dân bị thất truyền, không được ai chú dạy ý nghĩa và cách thức Lễ
Bái cho đúng pháp. Thành thử họ chỉ biết Lễ Bái theo thói quen, hành động không
đúng nghĩa và cũng không đúng chỗ. Chúng ta muốn rõ Nghi Lễ của Khổng Giáo thì
nên đọc “Văn Công Thọ Mai Gia Lễ" và muốn biết Nghi Lễ của
Phật Giáo thì nên am tường “Nhân Thừa Phật Học”. Cả hai rất quan hệ cho
cuộc sống làm người. Sự Lễ Bái mà người Việt Nam thường áp dụng, như trên
đã trình bày, đều theo Nghi Cách của Khổng Giáo và của Phật Giáo. Nghi Cách Lễ
Bái khác biệt giữa Khổng Giáo và Phật Giáo được giải thích dưới đây:
1/. THEO QUAN NIỆM KHỔNG
GIÁO:
Cách
lạy của Khổng Giáo, trước hết con người phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái
UY của kẻ sĩ. Hai tay Cung Thủ, nghĩa là hai tay nắm lại nhau là
tiêu biểu cho cái Dũng của Thánh Nhân. Trước khi lạy, hai
tay Cung Thủ đa lên trán, kế đưa sang phía phải, rồi đưa
sang phía trái là tiêu biểu cho Tam Tài (Trời, Đất và Người). Khi
lạy, hai tay Cung Thủ chống lên đầu gối chân mặt và quỳ chân trái xuống trước
là tiêu biểu cho sự Tôn Kính mà không mất tư thế cái Uy Dũng của kẻ sĩ Cúi đầu
xuống đất là tiêu biểu cho sự Cung Kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là Cung
Cách và Ý Nghĩa tổng quát mà Khổng Giáo quan niệm.
2/. THEO QUAN NIỆM PHẬT
GIÁO:
Sự
Lễ Bái của Phật Giáo so với sự Lễ Bái của Khổng Giáo có phần khác biệt về cung
cách cũng như về ý nghĩa. Riêng về Phật Giáo, ý nghĩa và giá trị Lễ Bái được
rất nhiều kinh luận đề cập đến. Theo Phật Giáo quan niệm, sự lễ bái cũng là một
trong những phương pháp tu tập để diệt phiền não mà bổn phận người con Phật
phải hành trì thường xuyên trong hằng ngày để được giải thoát tất cả nghiệp
chướng khổ đau sanh tử và sớm chứng quả Bồ Đề Niết Bàn Tịch Tịnh. Nam Hải Ký
Quy Nội Pháp Truyện quyển 4 ghi rằng: "Phật chỉ dạy các Đệ Tử
phải Lễ Bái Tam Bảo và Lễ Bái các bậc Đại Tỳ Kheo”. Kinh Phạm Võng quyển hạ
giải thích rằng: “Nếu có bậc Hoà Thượng, Thượng Tọa, A Xà Lê, hoặc người
bạn đồng học, người đồng kiến giải người đồng hành đều phải nghinh tiếp Lễ
Bái và vấn an". Luật Ngũ Phần quyển 7 ghi rằng: “Một vị Tỳ Kheo Ni
một trăm tuổi, đã thọ giới Cụ Túc từ lâu cũng phải Lễ Bái một vị Tỳ Kheo Tăng
mới thọ giới Cụ Túc”. Đại Đường Tây Vực Ký quyển 2 ghi rằng: “Ấn Độ có
chín cách Lễ Bái được gọi là Tây Trúc Cửu Nghi”. Chín cách lễ bái nói trên
được ghi nhận như sau;
1. Phát Ngôn Úy Vấn Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách mở lời vấn an.
2 . Phủ Thủ Thi Kính Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách cúi đầu tôn kính.
3. Cử Thủ Cao Ấp Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách dơ tay cao vái chào.
4. Hiệp Chưởng Bình
Cung Lễ: nghĩa
là Lễ Bái bằng cách chấp tay ngang bằng vái chào.
5. Khuất Tất Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách quỳ gối.
6. Trường Quy Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách quỳ nầm dài ra.
7. Thủ Tất Cứ Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách hai tay và hai đầu gối quỳ sát đất.
8. Ngũ Luân Cu Khuất Lễ: nghĩa là Lễ bái
bằng cách năm vóc đều cúi xuống.
9. Ngũ Thể Đầu Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bầng cách năm vóc gieo xuống đất.
Ngoài
ra người ấn Độ còn có nhiều cách Lễ Bái khác nhau. Theo phong tục mỗi nơi,
người Tín Đồ Lễ Bái trước Tượng Phật hoặc trước Bảo Tháp có hơi khác về cung
cách. Sự khác biệt về cung cách Lễ Bái được nêu cử như sau:
1. Tồn Cứ Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách đứng một chân quỳ lạy.
2. Khởi Cư Lễ: nghĩa là dùng nghi
thức bước một bước Lễ một lạy.
3. Hữu Nhiễu Tam Thất
Lễ: nghĩa
là Lễ một lạy rồi đi nhiễu ba vòng về phía bên hữu của Phật hoặc của Bảo Tháp.
4. Tạ Lễ: nghĩa là Lễ Bái
bằng cách ngồi xuống đất cúi đầu lạy, tức là lạy bằng cách ngồi v.v...
Phật
Giáo Việt Nam hầu hết đều áp dụng phơng pháp “Ngũ Thể Đầu Địa Lễ” trong
khi lễ bái. Đây là một phương pháp tiêu biểu ý chí Tôn Kính cao đẹp nhất trong
các cung cách Lễ Bái. Khi Lễ Bái, người Phật Tử đầu tiên phải đứng ngay thẳng
trước Tượng Phật cho nghiêm trang và khép hai chân sát vào nhau để lấy lại sự
an tâm thanh tịnh, đồng thời kiềm thúc Tâm ý không cho chao động vọng tưởng.
Ngay lúc đó, đôi mắt họ nhìn lên Tượng Phật và Tâm họ quán tưởng các tướng
tốt, quán niệm những đức hạnh cao quý của đức Phật để tỏ bày nguyện vọng chân
chánh của mình hầu mong Ngài chứng minh. Hai tay họ thay vì Cung Thủ (nắm lại
nhau) mà ở đây phải HIỆP CHƯỞNG, nghĩa là hai tay chắp lại nhau cho khít là
tiêu biểu Thức Tâm hiệp nhứt (Nhất Tâm) và để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý
nghĩa Ấn Tâm. Khi lạy Phật, có người để hai tay nơi ngực lạy xuống, nhưng có
người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống, cách nào cũng có ý nghĩa của
nó. Cách lạy để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm như đã giải thích
ở trên. Còn cách lạy đa hai tay lên trán là tiêu biểu ý nghĩa tâm nguyện của
mình dung thông đến chư Phật qua nhục đỉnh kế (qua Mỏ Ác, hay qua Đỉnh Đầu)
và lạy theo nguyên tắc “Ngũ Thể Đầu Địa”, nghĩa là đầu, hai tay, hai đầu
gối của người Lễ Bái phải đặt sát đất và họ lạy xuống với tư thế ngồi để khỏi
thất lễ nơi người đứng sau. Tiếp theo họ chỏi tay phải lên mặt đất rồi quỳ hai
đầu gối và ngửa hai bàn tay ra giống như đóa sen nở. Họ quán tưởng đức Phật
hiện đang đứng trên đóa sen kết thành bởi hai bàn tay của họ và họ đặt trán
mình vào lòng hai bàn tay như đặt đầu mình lên chân của Phật, đồng thời họ nằm
mọp xuống đất để biểu hiện sự Tôn Kính với tâm thành quy ngưỡng nương tựa.
Cách Lễ Bái này là tiêu biểu cho ý nghĩa “Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ”
(nghĩa là đầu và mặt của mình để lên chân của Phật gọi là Quy Mạng Lễ).
Phật
Giáo cho rằng, người Phật Tử ngoài sự Lễ Bái để tỏ lòng Tôn Kính các đức Phật,
các vị Bồ Tát, các Hiền Thánh Tăng, còn phải tưởng niệm những ân đức cao dày
của các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các Ngài tiến tu đạo nghiệp để
được trở thành đức Phật như quý Ngài. Người Phật Tử thật hành hạnh nguyện
như trên được gọi là quy mạng lễ.
Nhân Thừa Phật Giáo có chia làm bảy cách
lạy, trong đó có ba cách lạy của Thế Gian thường áp dụng và bốn cách lạy của
Thánh Giáo thường hành trì về mặt sự (về mặt hình thức) cũng như về mặt lý
(về mặt nội dung). Để cho Phật Tử nhận thức dễ dàng và chọn lựa tu tập cho đúng
pháp, bảy cách lạy được phân tích như sau:
D/. VỀ CÁCH LẠY CỦA THẾ
GIAN:
Trong
Thế Gian về mặt sự tướng, tức là về mặt hình thức, có ba cách lạy phổ thông mà
người đời thường áp dụng. Trong ba cách lạy nói trên, có hai cách lạy mà người
Phật Tử chân chánh cần phải để ý và tuyệt đối không nên áp dụng. Hai cách lạy
đó là Ngã Mạn Lễ và Cầu Danh Lễ. Hai cách lạy này chính là những tật xấu không
thể có nơi con người thánh thiện. Bảy cách lạy nói trên dựa theo tinh thần
Kinh Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 20 được trình bày như sau:
1. Ngã Mạn Lễ: nghĩa là người
lạy Phật hoặc lạy Ông, lạy Bà, lạy Tổ Tiên, vì hoàn cảnh bắt buộc phải hành lễ,
nhưng thâm tâm của họ không muốn lạy, do dó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái
độ kiêu căng, không có chút nào lễ độ cung kính cả. Đầu họ lạy xuống không sát
đất và họ đứng lên cúi xuống một cách cẩu thả cho qua việc. Họ vì sợ mất thể
diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần áo quý giá của mình, nên buộc lòng phải lễ
bái theo kiểu Ngã Mạn. Họ sợ bạn bè chê trách mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa,
bất tín, bất trung, cũng như họ quý trọng quần áo và bạn bè hơn chư Phật, Ông
Bà Tổ Tiên. Cách lạy đó gọi là Ngã Mạn Lễ.
2. Cầu Danh Lễ: nghĩa là người
lạy vì mong cầu danh vọng, quyền tước qua sự chú ý và ngợi khen của cấp trên
cũng như lấy lòng quần chúng ủng hộ. Khi có cấp trên cũng như khi có quần
chúng, họ siêng năng lễ lạy để cho mọi người thấy rằng mình có đạo đức, thượng
cấp nên nâng đỡ và quần chúng nên ủng hộ. Thật ra thâm tâm của họ không có chút
gì tín thành cả và ngược lại, một khi không có ai, họ lại biếng nhác giải đãi
trong việc lễ lạy. Như vậy họ lễ lạy vì mọi người chứ thật ra không phải lễ
lạy cho chính họ. Cách lạy này gọi là Cầu Danh Lễ.
Hai
cách lễ lạy vừa trình bày là hành động dối trá không thể có nơi người Đạo Đức
chân chánh. Đức Phật sở dĩ nêu lên trong kinh điển nhằm mục đích chỉ dạy cho
người con Phật sau này phải ngăn ngừa và người con Hiếu Hạnh phải tránh xa.
3. Thân Tâm Cung Kính
Lễ: nghĩa
là người lễ lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính. Thân và Tâm người lễ
lạy đều cung kính thì sự Lễ Bái mới có giá trị. Nói một cách khác, người lễ
lạy phải chí thành cả Thân và Tâm, nghĩa là họ phải có đức tin trong sự lễ lạy
thì sự cảm ứng rất dễ dàng với chư Phật, với các Thánh Hiền, với Ông Bà, Tổ
Tiên. Ngược lại, Tâm người lễ lạy nếu như thiếu cung kính thì thân họ sẽ
hiện ra phong cách thiếu lễ độ dễ nhìn thấy (Hữu ư trung xuất hình ư ngoại,
nghĩa là Tâm ở trong như thế nào thì tướng hiện ra như thế đó). Người lễ
lạy muốn cho Thân và Tâm đều cung kính thì phải theo cách lạy của Phật Giáo mà
ở trên đã giải thích và phải lạy thường xuyên để cho cung cách được thuần
thục. Người lễ lạy đã thuần thục thì mới có khả năng nhiếp phục Tâm loạn động
của mình. Thân Tâm Cung Kính Lễ là cách lạy cơ bản của Phật Giáo về mặt sự tướng,
tức là về mặt hình thức mà người xuất gia cũng như kẻ tại gia phải hành trì
cho nghiêm túc. Nhờ đó họ sau này mới đủ khả năng bước vào lãnh vực Thánh Giáo
Lễ của các bậc Thánh Chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở ngại.
E/. VỀ CÁCH LẠY CỦA
THÁNH GIÁO:
Cách
lạy của Thánh Giáo là cách lạy thuộc về lý lễ của các bậc Đại Thừa Bồ Tát thường
tu tập. Những cách lạy này nhằm mục đích thể nhập Pháp Giới Tánh của chư Phật,
tức là thế giới thuộc về Pháp Tánh của chư Phật an trụ và thấy thẳng được
Phật Thân, tức là thấy được Pháp Thân thanh tịnh của ch Phật. Bốn cách lễ lạy
của Thánh Giáo xin liệt kê như sau:
1. Chánh Quán Lễ: Chánh Quán nghĩa
là quán chiếu Pháp Thân chân chánh của chư Phật hiện ra trước mặt, tức là Bồ
Tát tu tập bằng cách vận dụng Thiền Quán chiếu soi Phật Thân ảnh hiện ra trước
mặt để lễ lạy. Người thực hiện được cách hành lễ này phải là người đạt đến
mức độ cao thâm trong phương pháp Thiền Quán. Phương pháp tu Thiền chia ra
làm hai phần: CHỈ và QUÁN. Phần CHỈ tức là phần chận đứng các duyên bên ngoài
lôi cuốn để được nhứt Tâm và nhờ đó dễ đi vào chánh niệm. Tâm một khi chuyên
nhất và chánh niệm thì Trí Tuệ sẽ được phát sanh, thường gọi là Tâm Định.
Còn
về phần QUÁN, người tu Thiền sau khi Huệ đã phát sanh liền sử dụng Huệ quán
chiếu Phật Thân (tức là Pháp Thân thanh tịnh của chư Phật) và Phật Cảnh (tức
là Pháp Giới của chư Phật an trụ) khiến cho tất cả đều hiện bày ra trước mặt
để lễ lạy. Muốn áp dụng phương pháp CHỈ để khiến Trí Tuệ phát sanh, người tu
Thiền phải thực hành ba phương pháp: Điều Thân, Điều Tức và Điều Tâm cho thuần
thục. Điều Thân, Điều Tức và Điều Tâm đã thuần thục một cách tự tại thì ngay
lúc đó Trí Tuệ liền phát sanh. Một khi Trí Tuệ đã được phát sanh, ngời tu tập
Thiền Quán mới có thể bước sang giai đoạn hai là sử dụng Trí Tuệ để quán chiếu
Phật Thân và Phật Cảnh. Đây là liệt kê tổng quát về phương pháp Thiền Quán.
2. Phát Trí Thanh Tịnh
Lễ: nghĩa
là người thật hành Thiền Định phải tu tập Thiền Quán cho đến khi nào Trí Tuệ
thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm mà không phải Trí Tuệ phát sanh từ nơi
Thức Tâm. Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm tức là Phật Trí trong
bản Tâm thanh tịnh của mình đảnh lễ Pháp Thân chư Phật trong mười pháp Giới.
Trí Tuệ phát sanh từ nơi Tâm Thức thuộc về Phàm Trí. Còn Trí Tuệ thanh tịnh
phát sanh từ nơi Chân Tâm thuộc về Thánh Trí. Phàm Trí còn bị lệ thuộc cũng như
bị giới hạn bởi Căn và Trần. Trái lại Thánh Trí đã thoát ra ngoài vòng cương
tỏa cả hai. Người tu tập Thiền Quán phải thấu triệt rằng: Pháp Thân chư Phật
trong mười Pháp Giới đều phát sanh từ nơi Bản Tâm thanh tịnh (tức là Pháp Thân
thanh tịnh của chư Phật hiện bày từ nơi Chân Tâm) và Trí Tuệ thanh tịnh của
mình cũng phát sanh từ nơi Bản Tâm Thanh tịnh chung của mười Pháp Giới. Lý do
đó, người lễ bái lạy một đức Phật tức là lạy tất cả chư Phật trong mời phương
không ngăn ngại.
3. Thật Tướng Bình Đẳng
Lễ: nghĩa
là cách lễ lạy này, người tu Thiền phải dùng Trí Tuệ quán chiếu thật tướng
của vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng không sai biệt, không có nhân ngã
bỉ thử, tức là người lễ bái không thấy có mình lạy và người để cho mình lạy.
Nói một cách khác, người thật hành Thật Tướng Bình Đẳng Lễ là dùng Trí Tuệ
quán chiếu thật tướng vạn pháp để nhận thấy rằng: mình và người, thể và dụng,
phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai (đều là nhứt như). Ngài Văn Thù Bồ
Tát nói: “Năng lễ Sở lễ tánh không tịch”, nghĩa là thể tánh của mình
đang lạy và thể tánh của người để cho mình lạy thảy đều vắng lặng và bình
đẳng.
4. Biến Nhập pháp Giới
Lễ: nghĩa
là người tu Thiền phải tận dụng Trí Tuệ Bát Nhã thanh tịnh của mình quán chiếu
Thân và Tâm nơi chính minh biến nhập vào Pháp Giới Tánh của vạn pháp một cách
dung thông, giống như Bác Sĩ sử dụng năng lượng Quang Tuyến X (X-ray) rất lớn
chiếu soi vào thân thể con người và năng lượng Quang Tuyến X thấu suốt xuyên
qua thân thể con người không chút ngăn ngại. Đó mới chính là lễ lạy thật sự
theo phương pháp Biến Nhập pháp Giới Lễ. Pháp Giới Tánh tức là Thể Tánh của
vạn pháp biến giáp khắp thế giới và thường trụ bất diệt. Pháp Giới Tánh là nơi
mà chư Phật thường an trụ để hiện thân hóa độ chúng sanh. Người thực hiện được
pháp quán chiếu này một cách tự tại thì người đó mới thật sự hành lễ đúng pháp
chân thật.
Qua
những phương cách Lễ Bái đã được trình bày ở trên, Thân Tâm Cung Kính Lễ
chính là pháp môn quan trọng là điều kiện tất yếu của người hiếu nghĩa tín tâm
để tỏ bày lòng tri ân và báo ân. Cách lễ lạy này cũng là phương tiện cần thiết
dùng làm gạch nối giữa chư Phật và tâm linh con người qua sự nguyện cầu gia
hộ. Phương pháp lễ lạy này lại còn là nền tảng căn bản cho Phật Tử trên con đường
tiến tu đạo nghiệp để được chứng ngộ qua bốn cách lễ bái của Thánh Giáo. Vậy
ngời Phật Tử phải nên cố gắng hành trì cho đúng pháp.
G/. LỢI ÍCH CỦA SỰ LỄ
BÁI:
Như
trước đã trình bày, Lễ Bái ngoài ý nghĩa tỏ lòng Tôn Kính và tưởng niệm ân
đức sâu dày của các bậc Tiền Nhân Thánh-Đức của Tổ Tiên dòng họ, còn là phương
pháp tu tập nhằm diệt phiền não, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn của mỗi con người
nhằm mục đích quy hướng Chánh Giác để được giải thoát và giác ngộ như đức
Phật. Đặc tánh Cống Cao Ngã Mạn đã sẵn có nơi mỗi con ngời. Nó châm rễ ăn sâu
trong Tâm Thức con người từ vô lượng kiếp về trước. Nó gây nên nguyên nhân
đau khổ sanh tử lưu chuyển trong ba cõi. Con dao bén Cống Cao Ngã Mạn chặt đứt
tình thương, phá hoại tình đoàn kết và gây nên nhiều hận thù chia rẽ.
Quyển
“Phật và Thánh Chúng” của Cao Hữu Đính, trang 110, Mục 18 về bi vận của
thành Ca Tỳ La, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản ghi lại câu chuyện tại họa do
tánh Cống Cao Ngã Mạn gây nên trong lịch sử ấn Độ như sau:
Nguyên
từ trước khi vua Ba Tư Nặc chưa quy y Phật, nhà vua đã cho sứ giả qua Ca Tỳ
La cầu hôn với giòng họ Thích Ca. Các Thân Vương của giòng họ nầy tự cao tự
đại cho rằng giòng họ mình là cao quý nhất đời không nên hạ mình kết hôn với
vua nước Kiều Tát La. Tuy nói huynh hoang như thế, nhng họ lại sợ uy thế của
vua Ba Tư Nặc, vì Kiều Tát La bấy giờ là một cường quốc như Ma Kiệt Đà trong
vùng châu thổ sông Hằng. Do đó, giòng họ Thích Ca mới dùng một Nữ Tỳ nô lệ hầu
hạ trong cung tên là Mạt Lỵ (Malika), tráo thành Vương Nữ đem gả cho Ba Tư
Nặc. Mạt Lỵ tuy là gái nô lệ, nhưng tư chất rất thông minh mà dáng mạo lại
cực kỳ xinh đẹp, nên được vua Ba Tư Nặc sủng ái, phong làm Đệ Nhất Phu Nhân.
Mạt
Lỵ phu nhân sanh con đầu lòng là Tỳ Lưu Ly (Virùdhaka) về sau mệnh danh là ác
Sanh Vương. Năm Tỳ Lưu Ly lên tám, vua cha cho sang quê ngoại để luyện tập
bắn cung, vì Ca Tỳ La vốn nổi tiếng về môn xạ thuật.
Bấy
giờ, trong thành Ca Tỳ La mới kiến thiết xong một đại giảng đường nguy nga
dành để đón tiếp Phật mỗi khi Phật về thuyết pháp. Giòng họ Thích Ca cho đây là
một chốn thiêng liêng, cấm không cho kẻ ty tiện bước vào. Không dè Tỳ Lưu Ly
nhân thả bộ rong chơi trong cung, lạc vào chơi cấm địa ấy, bị các Thân Vương
bắt gặp, xỉ mạ không tiếc lời, bảo rằng con của gái nô lệ Mạt Lỵ đã làm ô uế
Thánh Địa. Họ đuổi Tỳ Lưu Ly ra và lập tức truyền lệnh cho gia nhân cấp tốc
đến bới đất cũ trong giảng đường lên rồi chở đất mới về thay thế.
Tỳ
Lưu Ly nộ khí xung thiên, bèn phát lời thề độc rằng: “Khi nào lên ngôi vua,
ta thề quyết tiêu diệt sạch giòng họ Thích Ca mới hả giận”. Về sau, khi trở về Xá Vệ, Tỳ Lưu Ly ngày
đêm mưu tính việc rửa hận. Một hôm, nhân vua Ba Tư Nặc cùng Mạt Lỵ xuất thành
tuần thú, Tỳ ưLu Ly cùng nghịch thần Ca Lê Da Na tập hợp quân đội lại, chặt
đầu thị vệ của vua cha, đoạt lấy vương miện và bảo kiếm. Nghe tin, Ba Tư Nặc
hết sức kinh hoàng. Mạt Lỵ khuyên nhà vua nên tạm lánh nạn qua lưu vong bên
Ca Tỳ La, chờ dịp khôi phục. Nhưng không bao lâu sau, ông chết tại bên ấy thọ
80 tuổi.
Tỳ
Lưu Ly nghe tin vua cha băng hà, hạ lệnh cô lập thái tử Kỳ Đà, rồi tự tuyên bố
thừa kế vương vị. Bi vận Ca Tỳ La bắt đầu.
Một hôm, nhân đại triều, Tỳ Lưu Ly truyền
hỏi bá quan rằng:
Nếu
có kẻ sỉ nhục Đấng Quốc Vương tôn quý của mình, khinh thị Đấng Quốc Vương ấy
là con giòng hạ tiện, tội ấy các khanh nghĩ nên xử trị như thế nào?
Muôn miệng đáp trọng tội ấy đáng tru di.
Giòng
họ Thích Ca tự cao tự đại, Tỳ Lưu Ly nói tiếp. Họ cho rằng ta là con của một
gái nô lệ, vậy nay phải hung binh tru diệt họ.
Ba
lần xuất quân, ba lần Tỳ Lưu Ly gặp Phật cản đường tìm cách ngăn trở. Nhưng
đến lần thứ tư, biết rằng không ngăn đón được nữa vì nghiệp nhân quá khứ của
giòng họ Thích Ca quá nặng. Phật xót xa báo trước cho A Nan hay ráng trong 7
ngày nữa thì giòng họ Thích Ca sẽ tuyệt diệt. Tự mình tạo nghiệp dữ, không cách
gì cứu gỡ nỗi...
Tỳ
Lưu Ly tiếp tục công hãm thành rất gấp và cuối cùng hạ được. Sau khi vào
thành, y hạ lệnh bắt lính giữ thành gồm 500 người đem giết hết. Còn nhân dân
trong thành ước chừng 3 vạn người kể cả già trẻ lớn bé, y bắt chôn chân xuống
đất để cho voi dữ chạy qua mà chà nát. Ma Ha Na Ma nghe tin này lấy làm kinh
hoàng đau xót, bèn xin với Tỳ Lưu Ly cho ông và nhân dân được chết toàn thây.
Tỳ Lưu Ly mới cho đổi lệnh giết bằng voi chà ra lệnh giết bằng trầm nịch. Thế
là cả thành bị lùa xuống sông cho chết đuối. Tỳ Lưu Ly lại hạ lệnh vớt xác Ma
Ha Na Ma lên, bắt chặt đầu treo lên gốc cây.
Sau
khi tiêu diệt giòng họ Thích Ca và sát nhập Ca Tỳ La vào lãnh thổ Kiều Tát La,
Tỳ Lưu Ly cho thi hành một chính sách vô cùng bạo ngược và giết luôn anh là
Thái Tử Kỳ Đà. Vì vậy đời mới gọi ông là Ác Sanh Vương. Không lâu sau, cung
thành Xá Vệ bị một trận hỏa hoạn khủng khiếp, Tỳ Lưu Ly và tất cả vợ con dâu
bị chết cháy trong trận hỏa hoạn nầy.
Nước
Kiều Tát La dần dần suy yếu, khiến A Xà Thế sau khi quy y Phật cất quân sang
đánh, chiếm được Kiều Tát La, rồi sát nhập Kiều Tát La và Ca Tỳ La vào bản đồ nước
Ma Kiệt Đà.
Lịch
sử ấn Độ ghi lại câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng tai họa khủng khiếp do
nghiệp Cống Cao Ngã Mạn gây nên. Nghiệp Cống Cao Ngã Mạn có thể diệt vong cả
một quốc gia, cả một chủng tộc. Một chủng tộc cao quý nhất là chủng tộc Sakya,
chủng tộc sanh ra một vị Giáo Chủ tôn vinh nhất đương thời chính là Đức Phật
Thích-ca cũng không thoát khỏi thảm họa diệt vong đó. Cống Cao Ngã Mạn là danh
từ khác của tự cao tự đại, nghĩa là đặc tánh của một loại Nghiệp thích tự cho
mình trên hết, cho giòng họ mình, chủng tộc mình là cao cả và lại khinh khi kẻ
khác, ghép họ vào hạng thấp hèn. Nhà Duy Thức phân chia tánh Cống Cao Ngã Mạn
thành hai trạng thái Tâm Lý khác nhau. Tánh Cống Cao với một danh từ là Kiêu.
Tánh Ngã Mạn với một danh từ là Mạn. Theo nhà Duy Thức, tánh Cống Cao là loại
tâm lý tự cao có thể hóa giải dễ dàng một khi con người giác ngộ được sự tai
họa của nó. Cho nên nhà Duy Thức ghép nó thuộc về Tâm Sở Kiêu. Tâm Sở Kiêu là
một trong mười Tiểu Tùy Phiền Não. Còn tánh Ngã Mạn là loại tâm lý tự đại khó
có thể hóa giải, mặc dù con người đã giác ngộ được sự tai họa của nó. Cho nên
nhà Duy Thức ghép nó thuộc về Tâm Sở Mạn. Tâm Sở Mạn là một trong sáu Căn Bản
Phiền Não. Đặc tánh của Tâm Sở Kiêu và Tâm Sở Mạn được quyển Khảo Nghiệm Duy Thức
Học cùng một Tác giả do Ban Văn Hóa Xã Hội chùa Phật Tổ Ấn Hành, trang 88-99
trình bày như sau:
1. Tâm Sở Kiêu: là kiêu căng ngạo
mạn. Trạng thái Tâm Lý này thường xuất hiện mỗi khi thấy mình giàu sang, thấy
mình có quyền tước, có tài năng, có sắc đẹp v.v... vợt trội hơn người khác.
Những kẻ có bệnh Kiêu thích hành động kiêu cách, ngạo nghễ và
nhìn mọi ngời dưới cặp mắt thấp hèn. Tất cả có sáu loại Kiêu được phân định
như sau:
a. Không bệnh tật kiêu.
b. Trẻ tuổi hơn ngời kiêu.
c. Sắc đẹp kiêu.
d. Quý phái kiêu.
e. Giàu sang kiêu.
f. Học nhiều, biết nhiều kiêu.
Đặc
tánh của Tâm Sở Kiêu thường thúc đẩy con người khinh khi kẻ khác, tự đề cao
mình lên và cho mình là nhân vật quan trọng hơn cả. Đối xử với quần chúng, người
kiêu cách hành động thiếu sự nhún nhường và thiếu sự khiêm cung lễ độ. Tâm Sở
này chính là nguyên nhân sanh ra các tội lỗi. Tâm Sở này cũng làm chướng ngại
và ngăn cản không cho tâm lý Không Kiêu Căng phát sanh.
Thí dụ: Ông A và ông B trước
kia là bạn chí thân ở cùng quê. Lúc còn nhỏ, ông A nghèo hơn ông B và đến tá
túc nhà của ông B tại Linh thành để đi học. Gia đình ông B đối xử với ông A rất
đẹp. Đến khi tốt nghiệp, ông A khéo nịnh hót nên được cấp trên cân nhắc lên
Sài Gòn làm quan to có nhà lầu, có xe hơi, có cổng kín tường cao. Một hôm ông
B nhơn dịp lên Sài Gòn chơi, nghĩ đến tình xa bạn cũ, nên ghé thăm ông A. Ông
A đã không tiếp và lại còn bảo người ở ra trả lời rằng, “Quan lớn không có
quen biết với kẻ ăn xin, đừng thấy sang bắt quàng làm họ. Ông nên về đi”.
Đây là giọng nói của kẻ kiêu cách, của kẻ thiếu lịch sự khiêm cung.
2. Tâm Sở Mạn: là khinh mạn, ngạo
mạn. Trạng thái tâm lý này thích biểu lộ tánh khinh khi và tỏ bày cử chỉ hống
hách với mọi người chung quanh. Con ngời khinh mạn thường đề cao cá nhân
mình trên hết và cho mọi ngời chung quanh đều là hạng thấp hèn. Họ ỷ có tài
đôi chút hoặc cậy thế lực hơn người nên xem ai không ra chi. Những thái độ của
người khinh mạn thường thể hiện trong những trường hợp như:. có khi hành động
bộc lộ ra ngoài và cũng có lúc dấu kín cử chỉ ngấm ngầm bên trong thân tâm. Về
phía cử chỉ dấu kín ngấm ngầm bên trong thân tâm của người khinh mạn, chúng ta
chỉ để ý đến thì mới nhận biết được sự ngạo mạn của họ qua cách đối xử. Tâm Sở
này được phân làm sáu loại như sau:
a. Mạn: nghĩa là người có
đôi chút tài năng hoặc có quyền thế nào đó liền tự hào, hãnh diện, lên mặt hiu
hiu tự đắc với mọi người chung quanh, chỉ thấy mình trên hết, xem mình quan
trọng hơn cả và coi ai không ra chi. Người khinh mạn thờng biểu lộ cử chỉ cao
ngạo hống hách và bắt buộc mọi người chung quanh phải quan tâm đến mình. Còn
đối với những kẻ tài năng và quyền thế ngang hàng mình, người khinh mạn hay ỷ
lại, tự phụ và xem mình có vai vế tương đương với họ, cho nên trước công
chúng, người kinh mạn giao tiếp với họ thiếu phong cách và thiếu lễ dộ.
Thí dụ 1: Ông thầy T.Q. có đôi
chút tài năng được tiếng là người du học ngoại quốc lại là người đương kim
một chức vụ nào đó trong Giáo Hội, rồi lên mặt cao ngạo nhìn mọi người không ra
chi. Nhưng thật ra, có tiếng mà không có miếng, nghĩa là ông không có khả năng
tương xứng với địa vị đương kim mặc dù họ là người du học.
Thí dụ 2: Ông T và ông H là hai
người bạn thân với nhau và tài năn của hai người đều tương đơng
nhau. Ông T thì may mắn hơn được phong chức là Giám Đốc của một Xí Nghiệp P.B.
Một hôm, ông H vì muốn thăm ông T, nên từ Cần Thơ cồn cả lên thành phố Sài Gòn.
Ông T đã không tiếp và lại còn sai nhân viên ra tiếp. Trong khi tiếp chuyện,
người nhân viên tỏ thái độ bất cần trước mặt ông H. Ông H bất mãn ra về.
b. Quá mạn: nghĩa là đối với
những người có tài năng và địa vị ngang hàng mình, người Quá Mạn thường lên
mặt kiêu cách, tự cho mình hơn họ. Còn đối với những người có tài năng và dịa
vị hơn mình, người Quá Mạn lại lên mặt khoe khoang tự cho rằng mình bằng họ.
Thí dụ 1: Cùng một địa vị ngang
nhau, trớc mặt công chúng, anh X có bệnh Quá Mạn thích ra mặt thầy
đời, tỏ ra mình là người lãnh đạo, tự cho mình là kẻ chỉ huy, đi cắt đặt người
này, sai bảo người kia và bắt mọi ngời phải theo sự điều khiển của mình mà
thật ra anh X không có nhiệm vụ chi cả.
Thí dụ 2: Thấy người khác có địa
vị cao sang hơn mình, người có bệnh Quá Mạn thích khoe khoang, ưa khoác lác
với mọi người rằng; Tài năng ông đó dâu có hơn tôi ông ấy nhờ gặp thời nên mới
được địa vị như thế. Tôi nếu như ra lãnh đạo thì đâu có thua ông ấy.
c. Mạn Quá Mạn: nghĩa là tranh lấy
phần hơn. Theo nguyên tắc, người ta thật sự đã hơn mình về khả năng cũng như
đức độ Thế mà mình lại ra mặt tranh lấy phần hơn với họ và quả quyết rằng mình
nhất định không thua họ. Ai khuyên can mình cũng không chịu nghe.
Thí du: Anh A và anh B tranh tài
với nhau. Kết cuộc Ban Giám Khảo chấm anh A thua anh B. Nhưng anh
A không chịu thua. Anh viện đủ lý do phản đối cho rằng, Ban Giám Khảo bất công,
thiên vị. Anh cương quyết đấu tranh đòi hỏi anh B phải thi lại. Lúc đó mọi người
đều khuyên can, nhưng anh cũng không nghe.
d. Ngã Mạn: nghĩa là ỷ mình có
đôi chút tài năng và quyền thế, người bệnh Ngã Mạn thường đề cao cá nhân, tự
cho mình là kẻ đáng quý hơn hết và mỗi khi giao tiếp với bất cứ ai, họ thường
ra mặt khinh khi và hành động lấn áp những người chung quanh.
Thí dụ: Anh K là một nhà chánh
trị có tài năng và địa vị trong xã hội, đương kim là một Nghị Sĩ
trong Quốc Hội. Anh K thường hách dịch cao ngạo, tự tôn vinh mình và tự cho
mình là nhân vật quan trọng trong xã hội. Anh ta nhìn mọi người dưới cặp mắt
thấp hèn và cho họ không xứng đáng để anh ta làm quen. Người nào nếu như có
tài năng bằng anh ta hoặc vượt bực hơn anh ta thì người đó nhứt định bị anh
ta tìm mọi cách chèn ếp, lấn áp và đè đầu họ xuống không cho ngước lên.
e. Tăng thượng
Mạn: nghĩa là những kẻ chưa chứng ngộ đến chỗ chân lý
tuyệt đối chưa đạt được chánh đạo mà lại đi quảng cáo, đi khoe khoang, lâm ra
vẻ mình đã chứng đắc để mờ mắt mọi người.
Thí dụ: Một vị tu pháp môn nào
đó có chuyên nghiệp dôi chút, rồi lập dị, làm tướng, khoe khoang, dùng mọi kỷ
thuật quảng cáo cho mọi người biết mình đã chứng đắc, nhằm để mê hoặc chúng sanh.
Đồng thời họ chê bai các pháp khác của Phật đều sai lầm, chỉ có pháp của họ mới
đúng chân lý v.v...
g. Ty Liệt Mạn: nghĩa là biết mình
kém tài kém đức hơn người ta, nhưng vẫn khoe khoang với mọi ngời rằng, mình
có nhiều tài nhiều đức hơn họ và chuyên đi khích bác người này, chê bai người
nọ, cho tất cả không ai bằng mình.
Thí dụ: Anh G thì học lem nhem
không có bằng cấp chi cả. Nhưng anh ta vẫn khoe khoang và khoác lác với mọi ngời
rằng, anh có chứng chỉ này, có bằng cấp nọ, rồi anh mượn áo Cử Nhân, mượn áo
Tiến Sĩ chụp hình để lòe đời. Nhưng khi vào thực tế anh chẳng làm được trò
chi, bởi lẽ anh không có khả năng và trình độ chút nào cả.
Đặc
tánh của Tâm Sở Mạn là nguyên nhân để sanh ra các tội lỗi và ngăn chận không
cho Tâm lý Khinh An phát sanh.
Bao
nhiêu bệnh Kiêu Mạn vừa trình bày đã nói lên được sự nguy hiểm của chúng trong
việc điều khiển con người sinh hoạt ở mọi lãnh vực. Chúng tạo nên những nguyên
nhân Chấp Ngã và Chấp Pháp kiên cố. Người tu hành muốn diệt sự chấp ngã và
chấp pháp, trước tiên phải diệt những con bệnh Kiêu Mạn. Nhưng muốn diệt con
bệnh Kiêu Mạn, chúng ta hằng ngày phải áp dụng phương pháp Lễ Bái một cách
thuần thục.
Lễ Bái là một trong những phương pháp hữu
hiệu nhất cho việc hóa giải con bệnh Kiêu Mạn. Con người can đảm cúi đầu hạ
mình trước kẻ khác chính là người khiêm cung nhất. Con người đó đã diệt được
tánh kiêu mạn và họ không còn chấp ngã chấp pháp nữa. Theo quan niệm của Phật
Giáo, mình cúi đầu đảnh lễ trước kẻ khác không phải hành động mất phẩm cách
con người. Cử chỉ đó biểu lộ sự tương kính và tăng thêm sự cảm thông đối với
mọi người chung quanh. Con người sợ mình không có tài năng, sợ mình không có
căn bản đạo đức làm người và đừng sợ rằmg, mình cúi đầu lễ bái kẻ khác sẽ mất
thể diện. Đức.Phật cho chúng ta biết: “Tất cả chúng sanh đều cồ Phật Tánh”,
nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Tâm Phật. Tất cả chúng sanh đã có Tâm Phật
thì tất nhiên họ cũng có Thân Phật. Tâm Phật trong Tâm chúng sanh thì Thân Phật
cũng ở trong Thân phàm phu của chúng sanh. Cho nên một vị Sa Môn đảnh lễ một vị
Tỳ Kheo không phải đảnh lễ tấm thân ô trược (tấm thân xác thịt nhơ nhớp tanh
hôi) của họ mà ở đây, vị Sa Môn phải quán tưởng rằng, đang định lễ Thân Phật
thanh tịnh trong con người của vị Tỳ Kheo đó. Giá trị của sự Lễ Bái qua Tiểu
Sử về vua A Dục (Asoka) được ghi lại trong giai thoại như sau: Theo sử liệu,
vua A Dục (Asoka) là con của vua Tân Đầu Sa La (Bindusàra) thuộc Vương Triều
Khổng Tước (Vương Triều Maurya). Vua lên ngôi khoảng sau đức Phật nhập diệt
218 năm. Vua phát tâm theo Phật Giáo khoảng sau đức Phật nhập diệt 234 năm. Vua
có công lớn nhất trong việc Kiết Tập Kinh Điển Phật Giáo lần thứ III. Giai
Thoại rằng, sau khi Quy Y theo Phật Giáo, vua gặp vị Sa Môn nào và bất cứ ở đâu
đều cúi đầu đảnh lễ sát đất. Vị Cận Thần thấy vậy khuyên vua rằng:
- Bệ Hạ là một vị cao quý được vạn dân
tôn vinh và đầu của Bệ Hạ là biểu tượng cho các bậc Thánh Đức. Bệ Hạ đừng đảnh
lễ mấy Đạo Sĩ ăn xin hạ tiện làm mất thể diện của Đức Vua.
Vua
A Dục không trả lời và ra lệnh vị Cận Thần đó đi bán đầu người, đồng thời sai
vị Đại Thần khác đi bán đầu heo. Chiều đến vua triệu hai vị vào cung báo cáo
kết quả. Trước hết vua hỏi vị Đại Thần bán đầu heo: Khanh bán đầu heo như thế
nào? Vị Đại Thần bán đầu heo thưa:
- Tâu Bệ Hạ, đầu heo không đủ bán cho dân.
Họ yêu cầu cung cấp thêm.
Tiếp theo vua hỏi vị Cận Thần bán đầu người.
- Còn Khanh, Khanh bán đầu ngời nh thế
nào?
Vị Cận Thần bán đầu người lo sợ tái mặt,
cúi đầu cúm núm thưa:
- Muôn tâu Bệ Hạ, Hạ Thần bán đầu người
không được. Ai cũng đều chê không chịu mua.
Vua liền nói:
- Như vậy đầu của Trẫm đây cũng không có
giá trị bằng đầu heo?
Các quần Thần đều im lặng, ngẩn người.
Vua nói tiếp:
- Các vị Sa Môn là những bậc tu hạnh ly
trần thoát tục, đáng cao quý. Trẫm đây cúi đầu đảnh lễ các bậc đã thật hành
những điều mà người đời không thể làm được để tỏ lòng tôn kính họ. Tại sao
các Khanh cản trở Trẫm. Từ đây về sau ai cản trở không cho Trẫm đảnh lễ các vị
Sa Môn sẽ bị chém đầu.
Câu
tryện lịch sử ở trên nói lên ý nghĩa và giá trị của sự lễ bái trong Phật Giáo
mà vua A Dục đã bày tỏ trước quần thần. Người đời thường chìm đắm trong bể
ái dục khổ đau một cách đam mê không chút gì giác ngộ. Những tiền của, danh
vọng, sắc dục, ăn uống, ngủ nghỉ v.v... trói buộc họ quá nặng trong vòng lẫn
quẩn và thúc đẩy họ tạo thêm nhiều tội ác của nghiệp sanh tử luân hồi trong ba
cõi. Họ biết đó là những điều đau khổ trước mắt, nhưng họ vẫn sa ngã và hành
động không chút từ nan.
Thế
mà, bậc Sa Môn là những người đã cắt ái ly gia, thoát khỏi những sự ràng buộc
của thế tình, dứt bỏ ngoài thân năm điều ái dục, an nhiên tự tại trên con đường
giải thoát và giác ngộ. Họ đã thoát khỏi những điều mà thế nhân không thoát
khỏi và họ đã thật hành những hạnh thanh tịnh mà thế nhân không thể làm. Họ là
những bậc đáng cao quý cho chúng ta lễ bái. Thế nên vua A Dục sẵn sàng đảnh lễ
họ bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu mỗi khi được diện kiến.
Lợi
ích của sự Lễ Bái như đã trình bày ở trước, ngoài công dụng tiêu diệt dần đần
những phiền não trong mỗi con người, còn tăng trưởng Đạo Lực trong nội Tâm
của người tu tập. Mình lạy người khác tức là mình lạy mình. Mình tôn vinh người
khác tức là mình tôn vinh mình. Trường hợp này cũng như chúng ta học Anh Văn.
Chúng ta càng đọc lớn lên chừng nào thì chúng ta càng mau thuộc chừng đó. Chúng
ta càng học nhiều chừng nào thì chúng ta càng thuộc lòng nhiều và nhớ lâu chừng
đó. Chúng ta càng niệm Phật nhiều chừng nào thì Phật Tâm của chúng ta càng phát
triển chừng đó. Chúng ta càng lạy Phật tụng Kinh thâm hậu chừng nào thì công
đức Đạo Lực trong nội Tâm của chúng ta càng nẩy nở và tăng trưởng chừng đó.
Chúng ta phát ra Đạo Tâm bao nhiêu thì lúc đó chúng ta thâu vô Đạo Lực bấy
nhiêu không bao giờ mất. Những công đức càng bồi dưỡng bao nhiêu thì càng phát
triển bấy nhiêu không chút sai trái.
Kinh
Tăng Nhất A Hàm, quyển 24 có ghi lại những điều lợi ích của sự Lễ Bái. Kinh nói
rằng: Cung kính lễ bái đức Như Lai sẽ hưởng được năm phần công đức như
sau:
1. Đoan Chánh: nghĩa là ngời lễ bái
thấy tướng hảo của Phật liền khởi niệm hoan hỷ và phát tâm ớc mơ mong cầu.
Nhờ nhân duyên đó họ qua kiếp sau có thể hưởng được tướng mạo đoan trang tốt
đẹp.
2. Hảo Thinh: nghĩa là người lễ
bái xưng tụng danh hiệu đức Như Lai ba lần. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau có
thể được tiếng nói lảnh lót trong trẻo tốt đẹp.
3. Đa Tài Bảo: nghĩa là người lễ bái
thường dâng hoa, đốt đèn v.v... để bố thí cúng dường các đức Như Lai. Nhờ
nhân duyên đó họ đời sau hưởng được nhiều tiền của vật báu.
4. Sanh Trưởng Giả Gia: nghĩa là người lễ
bái đem tâm không chấp trước, chấp tay quỳ gối, chí thành lễ Phật. Nhờ nhân
duyên đó họ đời sau được sanh vào nhà giàu sang quí tộc.
5. Sanh Thiện Xứ Thiên
Thượng nghĩa
là nhờ công đức cung kính lễ bái các đức Như Lai, hành giả (người lễ bái) đời
sau sẽ được sanh vào các cõi lành hoặc các cõi trời.
Tóm
lại, Lễ Bái không phải hành động thấp hèn làm mất phẩm cách con người. Trái
lại Lễ Bái chính là một đạo nghĩa của con người tiến bộ và còn là một đạo lý
của Tín Đồ chân chánh. Đối với Tổ Tiên, người Hiếu Hạnh cần phải lễ bái để tỏ
lòng cung kính đối với Thánh Hiền, Tín Đồ chân chánh cần phải lễ bái để thể
hiện đức tính khiêm cung trong sự tu tập đạo lý giác ngộ. Lễ Bái nhầm giao cảm
với bề trên, kết sợi giây tương thân trong xã hội và tạo nên chất liệu để xóa
bỏ mọi dị biệt ngăn cách chia rẽ trong đoàn thể. Người con Hiếu Hạnh không thể
thiếu cung cách Lễ Bái. Người Tín Đồ trung kiên và đạo đức gương mẫu không
thể thiếu nghĩa vụ với nghi cách Lễ Bái này.
IV/.- KẾT LUẬN:
Vấn
đề thờ, cúng và lễ bái là những biểu tượng tín ngưỡng có giá trị chẳng những
về phương diện hình thức và còn hữu ích không nhỏ về phương diện tâm linh.
Thờ, cúng và lễ bái là nhu cầu cần thiết cho con người không thể thiếu trong
việc tu tập đào luyện đạo đức làm người. Vấn đề trên chẳng những cần thiết cho
cá nhân mình, cho gia đình mình trong đời này, mà hơn nữa, đây cũng là một nhu
cầu hữu ích cho thế hệ con cháu mai sau. Chẳng những thế vấn đề THỜ, CÚNG và LỄ
BÁI còn là một yếu tố cần thiết trong việc tạo dựng nhân lành cho cuộc đời mình
ở kiếp sau. Điều này rất quan trọng kể cả hình thức lẫn nội dung, kể cả sự tướng
cho đến lý tánh, để chúng ta và tất cả chúng sanh sớm giải thoát phiền não khổ
đau và được an vui tự tại trong sự giác ngộ.
Thờ
ở đây nhằm thể hiện sự tưởng niệm, tỏ bày lòng Tôn Kính dâng lên các bậc Tổ
Tiên và các vị Thánh Đức mà mình đã gởi trọn niềm tin. Người Thờ Cúng và Lễ
Bái là tự tạo điều kiện giao cảm, thiết lập điểm tựa cho Tâm Linh giữa họ với
Bề Trên mỗi khi cảm thấy tâm hồn lạc lỏng mà chính họ cần đến quyền năng hỗ trợ
của Tiền Nhân. Thờ ở đây còn là một hình thức giáo dục gia đình, nhắc nhở con
cháu ý niệm được bổn phận làm người đối với bề trên trong sự nghiệp kế thừa
Truyền Thống. Hình Thức Thờ Tự cũng tạo phương tiện cho con cháu noi gương
đức hạnh của Tiền Nhân để soi sáng cõi lòng tu tâm dưỡng tánh.
Cúng
ở đây nhằm tri ân sâu dầy của Tổ Tiên, của Thánh Hiền đáng kính với sự dâng
hiến lễ vật quý trọng và mong cầu ơn trên chứng minh gia hộ. Ngoài ra Cúng kỵ
còn tăng trưởng phước Ông Bà cho dòng họ Cháu Con và tăng trưởng Đạo Lực giải
thoát cho Tín Đồ qua hệ thống Tâm Linh làm gạch nối giữa người nguyện cầu với
các bậc Tiền Nhân Thánh Đức. Có thể nói Cúng Kỵ rất cần thiết cho việc giáo dục
gia đình ý niệm Truyền Thống Tổ Tiên, lý tưởng Giống Nòi và làm tròn nghĩa vụ
Đạo Đức con người. Muốn bồi dưỡng Tâm Linh lành mạnh, người Đạo Đức và Hiếu
Nghĩa không thể không Thờ, Cúng và Lễ Bái Tổ Tiên, Chư Phật và Thánh Hiền.
Lễ
Bái ở đây nhằm báo ân với cung cách quy ngưỡng, hướng về, cũng như noi gương
đức hạnh cao quý và ý chí siêu thoát của các bậc Tôn Kính để tu tập. Người Lễ
Bái mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của Tiền Nhân trên con đường
giác ngộ và giải thoát khổ đau sanh tử. Phận làm cha mẹ cần phải giải thích cho
con cháu hiểu rõ ý nghĩa và giá trị Thờ, Cúng và Lễ Bái. Con cháu nhờ đó tiếp
nối sự nghiệp Thờ, Cúng và Lễ Bái của Tổ Tiên cho đúng đạo lý.
Truyền
Thống Văn Hóa Việt Nam, Vấn đề Thờ, Cúng và Lễ Bái là hình ảnh linh động nhất,
cao đẹp nhất, sâu đậm nhất của một Dân Tộc có hơn Bốn Ngàn Năm Văn Hiến. Hình
ảnh Thờ, Cúng và Lễ Bái làm sống dậy tinh thần Hiếu Nghĩa và Đạo Đức Nhân Luân
của con Lạc cháu Hồng, Việt Nam bất diệt.
Tư liệu nguyên cứu:
Phong Thủy Sư, Lương Y: Đỗ Ngọc Tám –
Trạch Bằng
ĐT: 0913.140.194 – 0978.0460529 – 0932153.031
Trưởng ban chăm sóc sức khỏe thuộc
Trung tâm tư vấn ứng dụng tiềm năng con người T/p HCM
Nguyên Phó Giám Đốc Công Ty Phong Thủy Địa Thiên Thái.
ĐT: 0913.140.194 – 0978.0460529 – 0932153.031
Trưởng ban chăm sóc sức khỏe thuộc
Trung tâm tư vấn ứng dụng tiềm năng con người T/p HCM
Nguyên Phó Giám Đốc Công Ty Phong Thủy Địa Thiên Thái.
Nhận xét
Đăng nhận xét