THUẬT NGỮ TRONG PHONG THỦY

Thuật ngữ trong Phong Thủy

Phong thủy: 
    Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: “Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết : Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng”. Do vậy mà có tên là Phong thủy.
    Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy.

Thuật Phong Thủy:
    Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa chọn nơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ thống lý luận và phương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trường tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có thể ảnh hưởng đến con cháu của người đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người sinh sống tại đó. Thuật này đề xuất lý luận và phương pháp hướng dẫn người ta chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cư trú của loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích.
    Khi loài người bắt đầu có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho được nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh hưởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, người ta cố tìm cách mai táng sao cho có thể giữ gìn lâu dài thi thể người chết.
    Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa học còn thấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn liền với hoạt động xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc trạch, Bốc cư, Bốc lạc phản ánh tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái Chu Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng triết học cần thiết.
    Thời Lưỡng Hán , đã xuất hiện các trước tác về Phong thủy như Cung trạch địa hình, Kham dư kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con người đã trở nên rất mật thiết, đồng thời xuất hiện những người chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt điều cấm kỵ mang tính chất mê tín đang thịnh hành trong xã hội đương thời.
    Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con người được tầng lớp sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong thủy. Các sách Phong thủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại : Dương trạch và âm trạch. Thuyết “Tứ Linh” cũng bắt đầu hình thành. Các quan niệm âm dương ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà lạc, âm luật quý hậu được áp dụng vào thuật Phong thủy.
    Đến thời kỳ Tùy Dường, thuật Phong thủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm loại. Sách Trạch kinh, Táng thư đời Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Quốc còn đến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận cho 2 trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất là Táng thư đề xuất “thuyết sinh khí” đã trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác được tôn là người sáng lập học thuyết Phong thủy.
    Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong thủy là Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được tôn là tổ sư. Cuối đời Đường, xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện và phát triển về lý luận và phương pháp, đồng thời chia thành nhiều trường phái khác nhau. Phái Lý pháp đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hưởng của thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời được Lý học đời Tống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã hội Trung Quốc cổ đại.
    Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ khí, Đắc khí. Nội dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy âm trạch, trong đó Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội dung của Phong thủy âm trạch bao gồm : khảo sát hình dạng núi non sông nước trong một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và phương hướng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhưỡng, thước tấc huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức người cải tạo địa hình.
    Nội dung của Phong thủy dương trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa thế cao thấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi công và trình tự xây dựng, hướng mở cổng cửa, kích thước cổng cửa, các loại cây trồng và phương vị sở tại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính thống nhất giữa nhà ở với các công trình xây dựng xung quanh.
    Bt kể dương trạch hay âm trạch cũng đều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai “pháp” có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau người ta theo xu thế kết hợp cả hai.
    Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung Quốc, hiển nhiên chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đồng thời thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích lũy hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới được phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất : thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại.
    Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cười; hơn nứa quan niệm cho rằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu chưa hề có tư liệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa.

Kham dư:
   Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thư. Dương Hùng truyện viết: “Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đồ trạch thư”. Văn tuyển. Cam tuyền phú viết : “Hoài Nam Tử nói Kham dưhành hùng (đực) để biết thư (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy”. Hán thư. Nghệ văn chí chép 14 quyển “Kham dư kim quí”. Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng là “sách viết về phương vị Phong thủy”. Sử ký.
    Nhật giả liệt truyện . “Thời Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ? Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dư đáp không được”. Tùy thư. Kinh tịch chí có chép “Kham dư lịch chú”, “Địa tiết kham dư”, bàn về cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy.
   Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12 vị thần. Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan sát tượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy.
    Từ thời Tùy Đường trở đi, người ta dần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết : “Các nhà Kham dư thời cổ tức là các nhà “tướng trạch đồ mộ” thời cận đại, các nhà địa lý ngày nay”; chứng tỏ về sau người tá mới đưa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham dư. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu quen dùng thuật ngữ Kham dư, còn dân gian thì gọi là Phong thủy.

Địa l
ý :
   Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên đàm lục viết : “Văn Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý”. Cố Viên Võ đời Thanh trong Xương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết ” Hoàng hậu họ Từ qua đời, Lễ bộ thượng thư Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, chọn đất tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình”.

Địa l
ý học:
    Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký của Lục Du đời Tống: “Kỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, “Ai biết ngôi chùa kia là do trời đất tạo dựng nên.. Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn địa dư này chăng?” Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lý học, thì họ nói gần giống như Kỷ vậy”.

Địa học:
    Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 viết : “Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sư”.

Âm trạch :
    Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: “Đại phu bói về nhà ở và ngày mai táng”. Sớ : “Trạch, nghĩa là đất mồ mả”. Đời sau người ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú ngụ vào chữ “trạch”, nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120 : “Nếu ta chết ở chốn này, thì đây là âm trạch”. Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng, tức Phong thủy âm trạch.

Dương trạch:
    Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu “trạch” vừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi mồ mả là âm trạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời Đường : “Phàm dương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm trạch tức là có khí âm ôm dương”. Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa, tức phong thủy dương trạch.

Âm dương trạch:
    Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy âm trạch và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại diện cho Phong thủy.

Thanh ô thuật:
    Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là “Thanh Ô đồ” .
Thanh nang thuật:
    Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện : “Phác giỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thy họ Quách ẩn cư ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thy đem 9 quyển sách chứa đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chiếc túi vải xanh) tặng Phác”. Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy, mượn tên Quách Phác viết lời tựa. Dần dần thuật Phong thủy được gọi là thuật Thanh nang.

Trạch tướng:
    Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : “Thư mồ côi từ nhỏ , được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói : Họ ngoại có được trạch tướng tốt vậy”.
    Về sau người ta dùng hai chu “ngoại sanh” (cháu ngoại) thay cho chu “trạch tướng”. Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đường viết : “Vương Mãng
làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất giống người cậu của mình”.

Gia tướng :
    Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình, hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà).

Bốc triệu:
    Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản thị địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị : “Bốc triệu dinh thất gồm 2 việc; một là luận sơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu chốt của nhà kham dư”.

Bốc cát :
    Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu lục, quyển 1, của Vương Minh Thanh đời Tống, viết : “Vĩnh Xương Lăng bốc cát, lệnh cho Tư thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc”. Về sau “Bốc cát” được dùng để chỉ việc chọn đất mai táng.

Chiêm sơn:
    Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch.

Chiêm táng:
    Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh : “Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự”.

Tướng sơn:
    Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển.

Tướng mộ:
    Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan.

Tướng địa:
    Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 : “Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa”.

Tướng thổ:
    Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : “Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, “Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị”.
    Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng, hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới, thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là “Uất thảo”, cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực.

Bốc lạc:
    Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo : “Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực”. Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc.
    Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: “Bốc lạc dịch long thế, Hưng loạn võng bất vong” .

Bốc thục:
    Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng, mai rùa có những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo : “Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực”. Đời sau liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : “Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập”. Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : “Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị”.

Bốc địa:
    Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : “Đường Ngu bốc địa, Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc”. Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ “Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ”. Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy.

Bốc trạch:
    Chữ “trạch” có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Thượng thư. Chiếu cáo: “Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh”, ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư trú. Bài thơ “Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu : “Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa”. Thơ Di cư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : “Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ước phú giao cư “. 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thượng: “Đại phu bốc trạch và ngày mai táng”. Sớ của Khổng Dĩnh Đạt : “Trạch là đất mai táng”. Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng của Cố Viêm Vũ đời Thanh : “Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai”. Đời sau bèn gọi Phong thủy là Bốc trạch.

Bốc cư :
    Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỷ. “Đức công nguyên niên, bốc cư Ung”. Sau chỉ việc chọn đất định cư. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ “Hành trạch” của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam triều : “Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại”. Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đường của Đỗ Phủ đời Đường có câu : “Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền”.

Bốc thất :
    Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : “Phiêu phiêu số niên như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây”. Minh sử. Trương Khả Đại truyện : “Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử”.

Bốc vũ :
    Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều : “ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách” .

Bốc trúc :
    Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện : “Bốc trúc dương tiễn sơn trung, độc thư thập niên dư”.

Bốc lân :
    Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : “Thả Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. ‘Nhị, tam tử tiên bốc lân hề”. Đỗ Dự chú giải: “Bói láng giềng tốt”. Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu : “Nhất tạc bồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u”. Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú, đồng thời biểu thị với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ.

Bốc lão :
    Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc lão ở Đan Đồ”.

Chiêm trạch :
    Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng đế trạch kinh : ” Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự đoán tình hình họa phúc cát hung”.

Tướng trạch :
    Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : “Thư mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển” . Tùy thư. Kinh tịch chí có chép ” Tướng trạch đồ” 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép ” Tướng trạch đồ” 1 quyển.

1) Sinh khí : Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dương tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói “Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy” (Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía.
    Cho nên điều quan trọng nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dưỡng vạn vật.      Loài người được nó nuôi dưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của nó thì hung. Sự sống của loài người là kết quả hội tụ sinh khí , sinh khí ngưng kết thành cốt cách của con người.
    Người ta chết đi, máu thịt rứa nát, xương cốt vẫn còn; nếu đem thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở nơi sinh khí hội tụ, thì sinh khí sẽ nhập vào xương cốt mà trở thành nuôi dưỡng con cháu của họ, cho nên nói : “Mai táng phải thừa sinh khí vậy” (Táng thư). Đây là cơ sở lý luận của Phong thủy âm trạch. Còn về Phong thủy dương trạch mà nói , vì sinh mệnh của con người do sinh khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm được mảnh đất có sinh khí thịnh vượng mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà được sinh khí nuôi dưỡng.
    Nhưng sinh khí dưới lòng đất nuôi dưỡng người từ bên dưới, lực lượng ở sâu mà công hiệu chậm, cho nên khác với âm trạch, dương trạch còn phải có được “thiên hạ” (khí trời). Khí trời trực tiếp sưởi ấm thân thể con người lực lượng ở bên trên mà công hiệu nhanh , cho nên “Dương trạch dưới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì muốn có vượng khí của trời” (Tướng trạch kinh soạn . quyển 4), bởi vậy khi xây dựng nhà ở phải chú ý hướng mở cổng, cửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phương vị, để tiếp nhận vượng khí , loại trừ tà khí.

2) Phương vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phương vị cố định nào đó đối lập với “tử khí”. Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phương vị sinh khí này, ắt sẽ thu được hồng phúc lớn lao.
    Phương vị có sinh khí không giống nhau trong một năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phương bắc dịch sang đông 15 độ, Xem mục nhị thập tứ sơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở Dần, tháng 4 ở Mão, ất; tháng 5 ở Thìn, Tốn; tháng 6 ở Tỵ, Bính; tháng 7 thân, Canh; tháng 8 Mùi, Khôn; tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở Dậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn; tháng 12 ở Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phương chính bắc, thuận theo chiều kim đồng hồ mà xoay 1 vòng.

3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh.

4) Chữ “khí” ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với “không khí”, nó là một chất đặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể người.

Ngoại khí :
    Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nước chảy trên mặt đất. Nước chảy trên mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngoại khí chuyển tải, chỉ nội khí mới có thể tụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nước ) ngăn lại mà nội khí tụ.

Nội khí :
    Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận hành trong lòng đất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng.

Long thần
:
    Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, biểu hiện là long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén dùng hai chữ “Long thần” để biểu thị sự kỳ diệu của nó.

Thiên khí:
    1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dương tràn ngập trong trời đất; ẩn tàng mà vận hành dưới lòng đất thì gọi là “sinh khí”, phát tán trôi nổi trong không trung thì gọi là “thiên khí”.    Hoặc nói là khí chia ra âm dương, khí dương gặp gió thì vận hành, sưởi ấm thân thể, người, tức khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong thủy dương trạch coi việc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu.
    2) Phương vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phương vị 8 thiên can Giáp, Canh, Bính, Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí.

Địa khí:
    Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đất, phát ra mà sinh thành vạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem mục Sinh khí, Thiên khí.

Cát khí:
    Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vượng. Thuộc dương. Thi thể người chết sau khi mai táng nếu được cát khí nuôi dưỡng, thì vong hồn sẽ bay lên phù hộ cho con cháu hưởng phú quí. Sinh khí cũng được gọi là cát khí.

Sát khí:
    Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm núi hoặc chỗ lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản thay đổi hướng cổng, cửa.

Thực khí:
    Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực khí, đất càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên núi càng phải lớn mới là cát. Nhưng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm cho Minh đường rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lưu. Xem mục Hư khí.

Hư khí:
    Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (nước) là Hư khí. Nước càng sâu khí càng mạnh, nước càng nông khí càng yếu, cho nên nước phải sâu và chảy xa mới là cát. Nhưng Hư khí không thể tự nó trở thành nông sâu, núi cao thì nước mới cô thể dài xa, nên Hư khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem mục Thực khí.

Hung khí :
    Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc âm. Nếu thi thể người chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong hồn sẽ bị hung khí dìm xuống, ảnh hưởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên nghèo hèn, hiếm muộn, tai họa.

Lậu khí :
    Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật Phong thủy, Long đến hình dừng, nhưng thủy lưu không ôm lấy, tạo thành chỗ khuyết, sinh khí từ chỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành.
    Phong thủy dương trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa trước, thì sinh khí vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu hai bên phòng ở không có hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí không lành.

Cốt trùng:
    Là loại sinh vật hư cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho rằng loài người tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngưng kết thành xương cốt. Người ta chết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xương cốt vẫn còn. Sau khi mai táng, sinh khí thấm vào xương cốt, có ảnh hưởng tốt con cháu người đã khuất. Thời Trung Hoa Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xương cốt loài người giống như san hô, do các cốt trùng nhỏ xíu ngưng làm thành. Người ta chết đi, cốt trùng vẫn còn, cảm với sinh khí mà ảnh hưởng tới con cháu (xem Thuật bốc phệ tinh tướng học, quyển 3). Thực chất đây là dùng học cận đại phụ họa thuật Phong thủy, hoàn toàn vô căn cứ.

Địa lý ngũ quyết:
    Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình pháp trong thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát sa), Thủy (quan thủy), Hướng (lập hướng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó có ảnh hưởng khá mạnh tới lý luận Hình pháp.
    Tam cương ngũ thường: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đưa ra cho phù hợp với quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cương là : ” Một, Khí mạch, là cương phú bần tiện; hai, Minh đường, là cương sa, thủy đẹp xấu; ba, Thủy khẩu, là cương sinh vượng tử tuyệt” . Ngũ thường là : “Một, Long, long phải chân (thật); hai, Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp); bốn, Thủy, thủy phải bao (ôm); năm, Hướng, hướng phải cát (lành).

Ngũ tính :
    Đem họ (họ tên) của người phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn cứ vào đó mà dự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào giữa thời Hán và Đường, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ thể như sau : trước tiên, phối họ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thương, giốc, chủy, vũ. Phát âm họ của một người , nếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thương, ở kẽ răng là giốc, ở lưỡi là chuỳ, ở môi là vũ.
    Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa, thủy. Ví dụ các họ Trương, Vương, là thương; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung; họ Triệu là giốc. Người không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trước tác Phong thủy có liên quan để biết họ của mình thuộc âm nào. Định được ngũ âm rồi, thì biết được ngũ hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc mà xây nhà đặt cửa. Ví dụ, họ Trương là âm thương, thì cổng, cử chính không được đặt ở hướng nam, vì thương thuộc kim, mà phương nam là hỏa, hỏa khấc kim, không lành.
    Lại như họ Đồ là âm chủy, cổng nhà không được mở ra hướng bắc, vì chủy thuộc hỏa, mà phương bắc thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa hướng của phần mộ, có ca quyết đơn giản như sau :    “Thương, giốc nhị tính, bính nhâm ất tân; cung, vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc địa đắc cung, thứ sử vương công; đắc địa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn bất cung, thất địa thất cung, tuyệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh).

Ngũ phúc
, lục cực:
    Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm : thọ, phúc, khang ninh, hiếu đức, khảo chung mệnh; Lục cực gồm : yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, độc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thượng thư. Thuật Phong thủy cho rằng lục cực cứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân bằng tạo nên. Cho nên chọn đất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vượng, thuận hợp ngũ hành,  để trừ lục cực đón ngũ phúc.
    Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thương tích, sinh ly tứ biệt, tai nạn hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngược điên cuồng. Học thuyết Lí pháp trong thuật Phong thủy cho rằng mai táng phải có được âm long, âm huyệt, âm ứng, hoặc dương sơn, dương thủy, dương huyệt, dương ứng, là khí thuần nhất, thì có thể tránh được Ngũ hung. âm dương ở đây chỉ thuộc tính âm dương của phương vị Xem mục Nhị thập tứ sơn.

Giang Tây phái :
    Trường phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trường phái lớn. Phái Giang Tây do Dương Quân Tùng đời Đường khởi xướng. Họ Dương về cuối đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là người Giang Tây, nên có tên như vậy Thuyết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn mạch, thủy lưu; lặn lội phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng, chú trọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn mạnh sự phối hợp long, huyệt, sa, thủy. Còn gọi là phái Loan đầu.
    Thuyết này về sau hình thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dương Quân Tùng là tổ sư, lần lượt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tuấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trước tác của phái này hiện còn rất nhiều, tiêu biểu là Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị trượng pháp của Dương Quân Tùng, Táng thư người đời Tống mượn danh Quách Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý luận của phái Giang Tây chú trọng quan sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui nạp rất nhiều hình thế sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý.
    Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dương trạch thường mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng của nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây từ đời Đường Tống trở đi, lưu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút giảm, nhưng vẫn được xã hội tiếp thu rộng rãi, có ảnh hưởng rất sâu rộng.

Hình pháp :
1)Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong thủy do trường phái Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vượng mà cát, ắt hình sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn cứ vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan thủy, lập hướng, tết cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác định cát hung.
    Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên.    Lý luận dương trạch cũng chú trọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhiều hình vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trường phái tiên phong Giang Tây đề xuất và định nghĩa, mà được hậu thế nhất trí thừa nhận.
    Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả giới tự nhiên chân thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tương đối dễ hiểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Trước tác tiêu biểu của thuyết này là : Táng thư, Hám long kinh, Nghi long inh, Thập nhị trượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp , Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập thư.
2) Một học thuyết về thuật số cổ đại. Nội dung bao gồm : xác định hình thế sông núi, để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tướng địa, tướng trạch, tướng người, tướng lục súc tướng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn dùng hai chữ Hình pháp như chữ Phong thủy.
Loan đầu phái : Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng hình dạng của núi sông, nên có tên như vậy.

Phúc hiến phái :
    Trường phái Phong thủy. Một trong 2 trường phái lớn của thuật Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến), nên có tên gọi như vậy. Đến Vương Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trường phái này chủ yếu căn cứ vào cái lý của âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà tính toán. Nhấn mạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định hưu cữu (cát hung) âm trạch cũng thường luận về cát hung của tọa hướng, chủ yếu sử dụng cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc trạch pháp. Thuyết này về sau phát triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, trước tác cũng không nhiều, có chăng thường là mượn tên của người đời trước, khó biết đích xác là của ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lưu truyền rộng rãi ở vùng Chiết Trung, ảnh hưởng kém hơn hẳn phần Giang Tây.

Lý pháp :
    Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý luận Phong thủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý thuật số như : âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhân mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ thuyết Bát trạch trong lý luận dương trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử nguyên phi bạch, phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của người phối hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được.  Trong âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số căn cứ vào phương vị sông núi mà tính toán.
    Dù là âm trạch hay dương trạch, hầu như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức và quá trình suy lý rất trừu tượng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính tư biện. Trước tác về lý luận gồm Bát trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài. nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng, huyền bí nên nó không được tầng lớp dưới trong xã hội tiếp nhận.

Ốc trạch pháp :
    Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dương trạch hết sức chú trọng nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch kinh nên có tên như vậy.

Đồ trạch thuật :
    Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đường, phép này lấy họ tên của người phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng phối hợp với ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác định cát hung về nhà ở và mộ phần của những người có họ khác nhau. Chương “Khiết thuật thiên” trong Luận hoành của Vương Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch thuật. Xem mục Ngũ tính.
    Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Thời Hán có Hình pháp gia, là người xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau những người hoạt động Phong thủy đều tự xưng hoặc được gọi là Hình gia.
    Kham du gia : Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên sinh. Đời Hán có các nhà Kham dư. Sử ký. Nhật giả liệt truyện : “Thời Hiếu Võ đế, ông mời các thày bói đến hỏi : vào ngày nọ có thể cưới vợ được không? nhà ngũ hành bảo được, các nhà Kham dư nói không được”. Các nhà Kham dư đoán cát hung dựa vào 12 thần, tương ứng với khu vực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu quan, có quan hệ nhất định với Phong thủy. Nên đời sau dùng Kham dư để gọi thay cho Phong thủy, còn nhà Kham Dư tức là Phong thủy tiên sinh.
    Hằng ngôn lục của Tiền Đại Hân đời Thanh viết: “Nhà Kham dư đời xưa, tức là người xem nhà cửa, mộ phần đời nay”. Xem mục Kham dư.

Âm dương gia :
    Một trong “Cửu lưu” (9 trường phái) thời Xuân Thu, thời Hán cũng có âm dương gia, bao gồm nội dung : can chi âm dương, ngũ hành sinh khắc, ngũ đức chung thủy. Trước tác có Kham dư kim quí, cũng chứa đựng nội dung Phong thủy, nên đời sau gọi Phong thủy tiên sinh là âm dương gia hoặc âm dương tiên sinh.

Âm dương tiên sinh :
    Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy , vốn xuất phát từ tên gọi âm dương gia thời Tiên Tần. Hai chữ tiên sinh biểu thị sự tôn kính.

Mông nhân :
Chức quan thời Chu, chuyên trách quản lý phần mộ chung, phân biệt địa hình, vẽ đồ hình trình lên thượng cấp.

Mộ đại phu :
    Chức quan thời nhà Chu , chuyên trách quản lý phần mộ trong nước, vẽ địa hình bốn phương và phần mộ trình thượng cấp .
    Lư trạch đãi chiếu : Chức quan đời Hán. Trung Quốc cổ đại phần nhiều dùng hệ thống quan lại “Thái sử lệnh” quản lý bốc phệ chiêm tinh, tướng trạch, tướng mộ; thời Hán thiết chế “Đãi chiếu” 37 người dưới chức Thái sử, trong đó có 4 người là Lư trạch đãi chiếu, chuyên trách về tướng trạch.
    Tư thiên đài học sĩ : Chức quan thời Kim. Các triều Trung Quốc thời xưa dùng hệ thống cơ cấu quan lại Tư thiên đài để quan sát tượng trời, định lịch pháp. Thời Kim quy định chức Học sĩ trong phạm vi toàn quốc phải trải 1 hi tuyển mới được bổ vào chức đó. Khoa mục thi tuyển thiên văn, lịch pháp, chiêm bốc, thuật Phong thủy (Địa lý tân thư) và thuật hợp hôn an táng.  Một khi đã trúng tuyển trở thành Thiên đài học sĩ, phải đồng thời tham gia sự hoạt động Phong thủy.

Âm dương nhân :
    chức quan đời Nguyên. Đời Nguyên quy định Tư thiên giám tuyển chọn âm dương nhân qua thi cử. Khoa mục thi tuyển gồm : chiêm toán, tam mệnh, Chu dịch, Lục nhâm, Phong thủy dương trạch (thi theo “Chu thư bí áo”, “Bát trạch thông chân luận”), Phong thủy âm trạch (thi theo “Địa lý tân thư”, “Doanh nguyên tổng luận”, “Địa lý minh chân luận”). Trúng tuyển sẽ trở thành âm dương nhân thuộc Tư thiên giám, tham gia tòng sự hoạt động phong thủy.
    Về sau , đời Minh cũng có thiết chế âm dương nhân thuộc Khâm thiên giám, tòng sự hoạt động Phong thủy. âm dương sinh Thời Nguyên, Tư thiên giám thiết lập khoa âm dương học, học sinh theo học khoa ấy gọi là âm dương sinh, chuyên về thuật số, lấy Chu dịch làm đầu, thứ đến thiên văn, tinh mệnh, chiêm bốc, tướng trạch, tướng mộ. Tư thiên giám lo bồi dưỡng nhân tài, học sinh do các địa phương trong cả nước tiến cử, qua thi tuyển, nếu đỗ sẽ được nhập học.    Đời Minh, Khâm thiên giám cũng có thiết lập khoa Địa lý, dạy phương pháp lý luận Phong thủy; có chức quan nào khuyết, sẽ được bổ nhiệm.
    Phong thủy tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy. Từ đời Đường bắt đầu có tên gọi.này, nó trở nên phổ biến khắp nơi trong nước cũng có khi gọi là Phong thủy sư.

Phong thủy sư :
    Tên gọi nhung người chuyên hoạt động Phong thủy. Xem mục Phong thủy tiên sinh.

Địa lý gia :
    Tức Phong thủy tiên sinh, vì Phong thủy còn gọi là địa lý, cho nên người chuyên hoạt động Phong thủy còn gọi là địa lý gia. Vân lộc mạn chung, quyển 4, của Triệu Nhan Vệ đời Tống, viết : “Nhà địa lý không rõ có từ thời nào . Từ khi Hoàng đế ra lệnh thay đổi Giáp tí, phối hợp can chi mà phân ngũ hành, nay nhà địa lý tất có thuyết đại ngũ hành, chẳng hạn Nhâm thuộc thủy, nhà địa lý báo bảo Nhâm thuộc Hỏa”.
    Dung am bút ký. Dật văn của Tích Phúc Thành đời Thanh: “Người đời rất tin vào lời nói của nhà địa lý, họ bảo mai táng người thân ở chỗ đất lành, thì con cháu sẽ được giàu sang phú quí, trái lại sẽ nghèo hèn suy tuyệt”
    Địa lý tiên sinh : Người lấy thuật Phong thủy làm chức nghiệp, tức Phong thủy tiên sinh. Vì Phong thủy còn gọi là địa lý, nên có tên gọi đó. Sơ khắc phách án kinh kỳ, quyển 16: “Lại cách 2 tháng nữa, mời một địa lý tiên sinh đến chọn đất hoàn tất việc mai táng Vương thị, từ đó dần dần có người tới cầu thân”.

Địa lý sư :
    Tức địa lý tiên sinh. Sơ đàm tập . Sư hữu. Học đạo của Lý Chí đời Minh : “ở đây Cưu Thắng là địa lý sư (thầy địa lý). Kiên Hồ tứ tập. phong thủy của Chử Nhân Hoạch đời Thanh : “Thân phụ của Hồ Sơn Khiêm nói với thầy địa lý rằng, người đời biết tường tận về huyệt mộ trong núi, há biết đến huyệt mộ trong lòng người”.

Táng sư :
    Người tòng sự hoạt động Phong thủy âm trạch . Phong thủy chia ra âm trạch và dương trạch. Âm trạch chuyên nói về việc chọn đất mai táng, nên người ta gọi người chuyên về hoạt động này là táng sư.

Địa sư :
    Người tòng sự hoạt động Phong thủy. Phong thủy có tướng địa, bốc địa, lại còn gọi là địa lý, địa học, nên người ta gọi người chuyên tòng sự hoạt động Phong thủy là địa sư.

Bốc công :
    Người tòng sự chiêm bốc. Luận hoành. Cát nghiệm của Vương Sung đời Hán: “Ban đêm không trăng mà trong phòng tự bừng sáng, vua lấy làm lạ, bèn triệu Công tào sứ Sung Lan đến để đi hỏi bốc công”. Còn chỉ người tòng sự hoạt động Phong thủy, tức Phong thủy tiên sinh.    Hậu Hán thu. Đống Tuyên truyện : “Công Tôn Đan làm nhà ở, mà bốc công cho rằng nhà này sẽ có người chết”. Thái Bình quảng ký, quyển 137, dẫn sách U minh lục của Lưu Nghĩa     Khánh thời Nam triều : “Phụ thân của Viên An chết, bà mẹ sai An mang gà rượu đến biếu bốc công, nhờ chọn đất chôn cất”.

Đạo sĩ :
    Chỉ Phong thủy tiên sinh. Vốn chỉ người theo đạo phương sĩ, tăng lữ, tín đồ Đạo giáo, trong đó phổ biến chỉ tín đồ Đạo giáo. Vì các phép vu thuật, phù chú của Đạo giáo cũng giống như các phương pháp tương tự trong thuật Phong thủy, nên vào một số thời kỳ, ở một số nơi các đạo sĩ cũng tham gia hoạt động Phong thủy, đồng thời các Phong thủy tiên sinh chân chính cũng được người ta gọi là đạo sĩ.

La bàn :
    Còn gọi là La kinh. Công cụ quan trọng nhất trong thuật Phong thủy. Do Tư nam bàn, Lục nhâm bàn diễn hóa mà thành , xuất hiện như một công cụ định hình chuyên dùng trong thuật Phong thủy vào khoảng cuối đời Đường Năm 1985 đào được một chiếc la bàn bằng gỗ trong tay bức tượng “Trương Tiên. Nhân” thời Nam Tống bằng đất nung.
    Đến đời Minh, Thanh, la bàn được chế tạo khá lớn, chứa dựng nội dung cũng ngày thêm phức tạp; chiếc la bàn lớn nhất đạt tới hơn 40 lớp, bao gồm vạn tượng kinh vĩ trời đất, tập hợp cái lý của hai khí âm dương, cái chỉ của bát quái ngũ hành, cái số của Hà đồ Lạc thư, cái tượng của thiên văn tinh tú, trình tự của tiết khí bốn mùa, dùng để xác định phương vị, quan sát thiên văn, tính toán ngày lành, dự đoán họa phúc, trở thành công cụ không thể thiếu trong hoạt động Phong thủy, biểu hiện nhận thức và hiệu chỉnh góc lệch địa bàn, đồng thời gợi mở vô số khái niệm mang tính suy lý tổng hợp và liên tưởng triết học. Nhất là khi ứng dụng cho học thuyết Lý pháp thì nó càng thêm huyền bí khó hiểu.

La kinh:
    Tức La bàn. Thuật Phong thủy dùng nó để thâu tóm vạn tượng, kể cả kinh vĩ trời đất, huyền diệu khó đoán. Xem mục La bàn.

La bàn bát kỳ :
    Chỉ 8 trạng thái của chiếc kim trên la bàn trong những tình huống khác nhau, đó là : đường, đoái khi, thám, trầm, nghịch, trắc, chính. Đường, chỉ chiếc kim la bàn run rẩy bất định, không trở lại trung tuyến, chứng tỏ dưới đất có đồ cổ. Đoái, nghĩa là đột khởi, chỉ chiếc kim cứ nằm ngang la bàn, không trở về trung tuyến, chứng tỏ dưới lòng đất có khoáng sản hoặc vật bằng sắt.
    Khi nghĩa là dối trá, chỉ việc dùng sắt nhiễm tử dẫn kim, khiến nó di chuyển không ổn định. Thám, nghĩa là chúi xuống, chỉ chiếc kim nửa nổi nửa chìm, hoặc một đầu nổi, đầu kia chìm. Trầm, nghĩa là chìm, chứng tỏ dưới đất có đồ đồng. Nghịch, nghĩa là không thuận, chỉ kim nổi mà không có trật tự. Trắc, nghĩa là không thẳng, chỉ kim cứ dao động sang hai bên, không trở về trung tuyến. Chính, nghĩa là không tà, chỉ kim ổn định, luôn chỉ hướng Tí Ngọ. Trong bát kỳ, chỉ có Chính là cát; còn 7 trạng thái kia chứng tỏ đất chỗ ấy không lành, không nén làm nhà, xây mộ.

Thiên trì :
    Trung tâm la bàn, tức lớp thứ nhất. Nói chung, đường kính là 1 thốn 2 phân, tượng trưng 12 tháng trong 1 năm; sâu 3 phân, ví với 1 tháng có 30 ngày. Thiên trì trên la bàn dùng để bố trí kim la bàn chỉ hai hướng nam bắc, cũng có loại vẽ đồ hình Thái cực mà không bố trí kim la bàn.

Phân kim :
    Phương vị. Tức lấy 60 Giáp Tí phối thuộc ngũ hành, như Giáp Tí, ất Sửu là kim, bính dần, đinh mão là hỏa, mậu thìn, kỷ ty là mộc, canh ngọ, tân mùi là thổ, bính tý, đinh sửu là thủy. Vì ngũ hành lấy kim làm đầu, nên gọi là phân kim. Còn gọi là 60 long, trên la bàn biểu thị phương vị, đồng thời có thể dựa vào đó mà phán đoán sinh khắc cát hung.

Chính châm :
    Trên la bàn lấy phương vị nam bắc mà kim nam châm chỉ hướng làm Chính châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Chính châm để xác định tọa hướng của nhà cửa, phần mộ. Có thuyết nói Chính châm dùng để định ô vuông của Lai long.

Địa bàn:
    Các lớp sở thuộc Chính châm trên la bàn gọi là Địa bàn, thống nhất ở dưới Chính châm, dùng để xác định tọa hướng. Có thuyết nói vừa để định ô vuông của Lai vừa để định hướng. Xem mục Chính châm.

Trung châm :
    Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, ngược chiều kim đồng hồ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Trung châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Nó có tác dụng hiệu chỉnh góc lệch địa bàn , có tính chất khoa học, song thuật Phong thủy giải thích là do tác dụng cảm ứng của khí ngũ hành hoặc hai khí âm dương. Trung châm trên la bàn dùng để định ô vuông Lai long. Vì Lai long là từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, nên trước tiên phải xác định tọa hướng của chúng. Có thuyết nói Trung châm dùng để nạp thủy.

Thiên bàn :
    Các lớp sở thuộc Trung châm trên la bàn gọi là Thiên bàn, thống nhất ở dưới Trung châm. Tác dụng của Thiên bàn là định ô vuông Lai long. Vì long thuộc dương, thiên (trời) cũng thuộc dương, nên gọi là Thiên bàn. Lại vì trời thuộc dương, mà đất thuộc âm, dương động trước mà âm động sau, nên Thiên bàn vận hành trước nửa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Thiên bàn dùng để nạp thủy. Xem mục Trung châm.

Phùng châm:
    Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, thuận chiều kim đồng hổ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Phùng châm, thực tế là cột bóng Tí Ngọ, tức là dùng cột bóng để đo bóng nắng mà biết được phương vị nam bắc. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Phùng châm để thu nạp sa, thủy. Vì sa thủy là tử gần ra xa, tử trong ra ngoài, nên cần vận hành nửa bước mà thu nạp. Có thuyết nói Phùng châm chuyên để tiêu sa.

Nhân bàn :
    Các lớp sở thuộc Phùng châm trên la bàn gọi là Nhân bàn, thống nhất ở dưới phùng châm, dùng để tiêu sa nạp thủy. Vì sa thủy là từ gần ra xa, từ trong ngoài, nên Nhân bàn vận hành sau nứa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Nhân bàn dùng để tiêu sa. Xem mục Phùng châm.

Môn xích :
    Một trong những công cụ chuyên dùng trong thuật Phong thủy. Làm bằng gỗ, trên cán chia thành từng nấc đều nhau, với các ký tự phân biệt cát hung, để đo đạc kích thước cổng, cửa và đồ dùng trong nhà. Nếu khớp vào ký tự cát tường thì là cát (tốt lành), khớp vào ký tự hung thì là hung. Môn xích gồm các loại như Lỗ Ban xích (thước lỗ ban), môn quang xích.

Lỗ Ban xích:
    Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Mặt trước và mặt sau cùng chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 5 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. Dùng để đo kích thước cổng, cửa đi, cửa sổ, phòng khách, bếp, các vật dụng trong nhà .
    Lấy chiều ngang, chiều dọc, hoặc 3 chiều dài, rộng, cao, nếu rơi vào chữ cát tường là cát, rơi vào chữ hung là hung. Còn tính chi li hơn, như cổng, cửa chính phòng khách nếu rơi vào các chữ “quyền lộc”, “cát khánh” , “quan lộc”,” thiên lộc” là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà rơi vào các chữ ” tử tôn” , “hoạnh tài” , “tuấn nhã” , ” yên ổn” là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các chu ” thanh quí” , “mỹ vị” là đại cát; cửa đi, cửa sổ thư phòng nếu rơi vào các chữ “trí tuệ”, “thông minh” là đại cát.
    Do độ dài của thước thời xưa và thời nay khác nhau, cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thước Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29,7 cm.

Môn Quang xích
:
    Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Trên mặt chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng để đo kích thước nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tường (tài, nghĩa, quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thước Môn quang là 42, 76 cm.

Sơn tổ :
    Tổ tiên của các mạch núi. Còn gọi là Tổ Long, tức núi Côn.

Nam long :
    Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền nam Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam thì tách khỏi Bắc Long mà chạy xuống phía nam, đến Thượng Lạc (nay là huyện Thường, tỉnh Thiểm Tây), vượt Hán Thủy, đến núi Kinh, men mạch núi Đại Ba chạy xuống phía đông nam, lại vượt Trường Giang, đến Hoành sơn, men phía đông Nam Lĩnh, tới Phúc Kiến, Chiết Giang mà ra biển. Thuật Phong thủy cho rằng mạch núi Nam Long phần nhiều kỳ vĩ, ở Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh) tạo thành địa thế hiểm trở, là đất đế vương phát tích.

Bắc long :
    Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền bắc Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam, Hoa sơn, lại vượt Hoàng Hà mà quành lên phía bắc, qua núi Vương ốc, núi Thái Hành, chạy sang phía đông, đến Liêu Đông thì dừng. Thuật Phong thủy cho rằng Bắc Long là đất kết tuyệt vời, với các đỉnh núi cao ngất trời, được Hoàng Hà và sông áp Lục ôm ấp trước sau, cùng với mạch núi Yên sơn tạo nên cơ nghiệp đế vương ngàn năm.

Trung long :
    Một trong 3 đại hành Long, chỉ mạch núi nằm ở khoảng giữa Nam Long và Bắc Long. Phần đầu nó đồng hành với Nam Long, đến Tần Lĩnh thì hướng sang phía đông, qua mạch núi Đại Biệt mà ra biển. Mạch núi này không có thế liên tục rõ rệt, chỉ là do vua cha của Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương được an táng tại Phụng Dương, tỉnh An Huy, nên người đời Minh thần bí hóa Trung Long một cách khiên cưỡng.

Khiếu lĩnh :
    Mạch núi. Thuật Phong thủy dùng để đặc chỉ mạch núi ở miền tây nam, thuộc Nam Long.

Tái viên :
    Thời xưa gọi vùng biên giới phía bắc là Tái viên. Thuật Phong thủy dùng để chỉ mạch núi miền đông bắc, thuộc Bắc Long.

Toàn khu :
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi khởi từ đường chân trời, có đầu có đuôi. Thái tổ ở nơi xuất phát cao lớn hùng vĩ, đoạn giữa liên tục, nhấp nhô, phần cuối kết huyệt có tình, triều sơn và án sơn phía đối diện ngay ngắn đoan chính. Chỉnh thể trông như toàn bộ thân mình đầy đủ của một con rồng, như vậy thì sinh khí tự nhiên thỉnh vượng, an táng sẽ đại cát.

Phân chi :
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi chính tách ra mấy mạch nhánh, các ngọn núi nhô cao, xếp đặt có thứ tự lớp lang. Chỉ cần Tổ sơn cao lớn hùng tráng, thì sinh khí của các mạch nhánh cũng sẽ thịnh vượng, an táng sẽ đại cát.

Ẩn phục :
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tuy có ngọn núi không cao to lắm, nhưng nhấp nhô chạy đến, liên tục không đứt, lúc ẩn lúc hiện, đến ngay trước mắt. Long ẩn phục có sức mạnh lâu dài, an táng sẽ cát. Thực tế tương đương ẩn Long. Xem mục ẩn Long.
Lĩnh quần long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở giữa, được các ngọn núi xung quanh tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên nó trở thành thủ lĩnh, an táng sẽ cát.

Sinh long :
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi cao đẹp, nhấp nhô lên xuống, uyển chuyển chạy đến một cách sinh động, đồng thời có khá nhiều mạch nhánh, giống như cành lá phân bố đồng đều, như con rết lắm chân, hoặc không có mạch nhánh, nhưng giống như chuỗi ngọc đẹp. Sinh Long có tương ngũ hành thuộc hỏa, an táng sẽ cát.

Phi long :
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi sinh động khoáng đạt, có 2 mạch nhánh như hình chim nhạn giang cánh, phượng hoàng sải cánh ôm ấp huyệt mộ; an táng sẽ cát.

Đằng long :
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tương đối thấp, nhưng dần dần đi cao lên, với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày rộng. Phải chọn huyệt tại đỉnh núi, gọi là định Thiên huyệt; an táng sẽ cát.

Giáng long :
Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp lạ thường, nhưng mỗi lúc đi một thấp dần, giống như con rồng từ trên trời mây đáp xuống biển xanh. Giáng Long có sinh khí cực vượng, an táng sẽ đại cát. Có câu ca rằng “Thế nhược giáng Long, thủy nhiễu vân tòng, tước lộc tam công” (Thế như rồng đáp, từ mây cuốn nước, tước lộc sánh ngang chức tam công) (theo sách Quản thị địa lý chỉ mông).

Hồi long :
Hình thế núi. Như Phiên Long. Chỉ mạch núi uốn lượn trở lại, đầu đuôi tương ứng, giống như con rồng cuộn mình lại. Hồi Long có tượng ngũ hành là mộc, là đệ nhất Long; an táng sẽ đại cát.

Phiên long :
    Hình thế núi. Xem mục Hồi Long.

Ngọa long :
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi đường bệ sừng sững, dáng vững vàng, yên ổn, chân núi thu lại như con hổ dừng chân, con trâu nằm quì. Ngọa Long có sinh khí lâu bền; an táng sẽ cát, tuy phát tích hơi muộn.

Thụy long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi du dương mà đến, thản nhiên bình dị, khí độ ung dung, tinh thần bình tĩnh, giống như mắt rồng nhắm lại, mạch khí ẩn phục, tương tự Ngọa Long, có tượng ngũ hành là thổ; an táng sẽ cát.

Hoành long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi tràn ngang qua, tiến thẳng không vòng lại. Nói chung không nên định huyệt; nhưng nếu sa, thủy có tình, có tả hữu hộ vệ, thì cũng có thể an táng gần sống núi, gọi là Phán Long định huyệt. Xem mục Phán Long định huyệt.

Xuất dương long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi tứ chỗ đất bằng đột nhiên cao vút lên, siêu quần xuất chúng một mình đẹp đẽ, uốn lượn như rắn bò, giống ngư mãnh thú ra cửa rừng. Xuất dương Long có sinh khí thịnh vượng, sức mạnh rộng lớn, chớ thấy nó đơn độc mà bỏ qua; về tượng ngũ hành, Xuất dương Long là kim, an táng sẽ cát.

Ẩn long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi bàng bạc từ xa mà đến, mạch lạc không rõ, tông tích lừ mờ, như có như không, giống như rồng rắn ẩn hiện; thực ra nó uốn trườn liên tục, sinh khí không hề bị tiết thoát, cứ thế tiến đến thẳng huyệt vị. Ở chỗ tận cùng, địa thế tựa như bàn tay để ngửa; định huyệt ở nơi hai dòng nước hội tụ; an táng sẽ cát.

Can long:
    Hình thế núi. Chỉ một mạch núi chính trong một số mạch núi, cao lớn hùng vĩ, có nguồn gốc từ xa, giống như thiên mã hành không (ngựa trời phi trên không trung), khí tượng tôn quí, có vô số núi hai bên hộ vệ. Can Long có sính khí cực vượng, nếu triều và án sơn có tình, thì an táng đại cát, chủ con cháu đời đời làm quan to.

Chi long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi tương đối nhỏ tách ra từ mạch núi chính, thấp và ngắn hơn núi chủ. Sinh khí của Chi Long không vượng, nếu an táng ở đó, con cháu chỉ bình thường mà thôi.
Bình nguyên long: Địa hình. Đồng bằng không có núi, lấy gò đống làm Long. Nếu không có cả gò đống, thì lấy chỗ đất hơi cao làm Long, như câu “Đất cao 1 tấc cũng là núi”. Nhưng nếu dùng sức người đắp đất cao lên thành gò thì không Phải là Long. Hoặc lấy thủy đạo làm Long. Xem mục Thủy Long.

Giáp phụ long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi nhỏ hơn ở hai bên mạch núi chính, như cành lá tách ra tứ thân cây hình thế thâm thúy; an táng sẽ cát.

Ứng long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi đối diện với Lai Long; cần phải ngay ngắn có tình, hô ứng với Lai Long. Nếu Lai Long không có ứng, thì không phải là Chân Long; Ứng Long không có chủ thì cũng không phải là Chân ứng.

Sát long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hung dữ, đá cứng sần sùi, nhọn sắc như lưỡi dao, mũi tên, hiểm ác dị thường; an táng ở đó con cháu sẽ gặp nhiều tai họa, hung hiểm.

Kiếp long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi tán loạn, không phân chính phụ, sinh khí không tụ; an táng sẽ đại hung.

Phúc long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn ốc thâm hậu, hình thế tổ tông hoàn hảo, có các núi hai bên hộ tống. Phúc Long có sinh khí thịnh vượng; an táng được phúc. Dù tình huống nơi kết huyệt không thật như ý, cũng có thể căn cứ địa hình cụ thể mà chọn huyệt mộ.

Bệnh long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi uể oải, lúc liền mạch lúc đứt quãng, sạt lở, nhiều hầm hố, do đó sinh khí bị thất thoát, không nên mai táng. Nếu miễn cưỡng kết huyệt, chủ con cháu cô hàn.

Tiến long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn gốc cao lớn, lần lượt thấp dần tổ tông cha mẹ phân minh, giống như ngựa trời phi xuống ráng mây. Nếu phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi tựa hồ cao dần lên, an táng sẽ khiến con cháu làm quan to; tương tự Giáng Long.

Thoái long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi sau khi xuất phát cứ từng bước cao dần. Nếu ở phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi cứ tựa hồ thấp xuống, như lúi lại, thì an táng sẽ hung. Dù được huyệt đẹp, con cháu cũng chỉ phát phúc một đời, khó tránh khỏi bần cùng.

Thuận long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi trập trùng chạy đến, các mạch nhánh hai bên đối xứng, phía trước có dãy núi bao bọc hộ vệ, bản thân nó nhấp nhô rõ ràng với nhiều mạch nhánh. An táng sẽ cát.

Nghịch long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi chạy đến không thuận, chạy xéo đi không ngoảnh lại, các ngọn núi phía trước và hai bên huyệt quay đầu đi mỗi cái mốt hướng, như anh em chẳng buồn quan tâm đến nhau. Không nên mai táng.

Cường long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hùng tráng, linh hoạt khí khái, mạch nhánh hai bên có lực. Nếu an táng ở chỗ cuối của mạch núi, con cháu sẽ lập tức trở nên phú quí.

Nhược long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi trơ trọi đơn bạc, cỏ cây lơ thơ, tựa như con trâu gày trơ xương, ngã quỵ xuống đất, như con hạc gày không có gì ăn, rụng hết cả lông. Nhược Long quá ít sình khí, không nên mai táng.

Tử long:
    Hình thế núi. Chỉ mạch núi lở lói, hình thể lở loét, không thể gượng dậy nổi, không có mạch nhánh hộ vệ, như cá mắc cạn, như cây không cành lá, chẳng nên mai táng.

Thái tổ:
    Hình thế núi. Còn gọi là Tổ sơn, Thái tổ sơn, phát tướng. Chỉ đỉnh núi ở nơi mạch núi xuất phát, đột nhiên nổi lên cao sừng sững, trấn giữ một phương, là đỉnh núi cao to nhất trong vùng. Từ đây có một hoặc nhiều mạch nhánh xuất phát mà trườn đi như rắn bò. Thái tổ phải cao chọc trời, hùng vĩ trang nghiêm, đường bệ đáng kính. Thuật Phong thủy lấy quan hệ gia tộc thời cổ đại để ví với địa mạo. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ, tiếp đến Thái tông, Thiếu tổ, Thiếu tông, Phụ mẫu (cha mẹ), Tử tôn (con cháu), trong đó con cháu chỉ triều và án sơn. Xem các mục bên dưới.

Tổ sơn:
    Tức Thái tổ. Xem mục Thái tổ.

Phát tướng:
    Hình thế núi. Tức Tổ sơn. Xem mục Tổ sơn

Thái tông:
    Hình thế núi. Tức Thái tông sơn. Chỉ đỉnh núi tiếp sau chỗ xuất phát, thấp nhỏ hơn Tổ sơn một chút, là phần đầu của mạch núi.

Thiếu tổ:
    Hình thế núi. Tức Thiếu tổ sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau Thái tông trong mạch núi, là phần hệ trọng của Long. Nếu hai cánh mở ra, cao to đoan chính là cát; nếu thấp nhỏ cô đơn là ít sinh khí.

Thiếu tông:
    Hình thế núi. Tức Thiếu tông sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau thiếu tổ trong mạch núi, tiếp cận chỗ của mạch núi, nếu rõ ràng mạch lạc và liên tục là cát.

Phụ mẫu:
    Hình thế núi. Chỉ nơi nhập thủ của mạch núi, mạch núi tới đó thì dừng. Phải nguy nga cao đẹp, lại lại có thế đi xuống. Ca quyết nói : “Vấn quân hà giả vi phụ mẫu, huyệt hậu nga nga tủng nhất sơn” (Xin hỏi thế nào là núi cha mẹ, là sau huyệt có một ngọn núi cao vút nguy nga). (Theo sách Kham dư mạn hưng).

Tử tôn:
    Hình thế núi. Tức triều và án sơn. Chỉ dãy núi đối diện với Lai Long. Sau khi mạch núi đã tận cùng, cần có đất dung nạp huyệt mộ và sa ở hai bên tả hữu. Ngay phía trước huyệt mộ, phải có núi cao với diện mạo như chào đón, gọi là Tử tôn (con cháu) của Long.

Giáng thể :
    Hình thế núi. Chỉ nơi Lai Long nhập thủ phải có hình thế từ cao trải xuống thấp dần, để địa thế dần dần trở lại bằng phẳng, tiện lợi cho việc dựng nhà xây mộ.

Chẩm kháo:
Hình thế núi. Chỉ đồi núi ở sau lưng nhà ở hoặc phần mộ, nói chung là nơi tận cùng của Lai Long, cũng chính là Huyền Vũ. Chẩm kháo có nghĩa là đối đầu dựa vào phía sau.

Tam thoa:
    Hình thế núi . Tam là 3 , thoa là giao nhau. Chỉ mạch núi ở chỗ nhập thủ giao nhau như hình chữ “cá” (của tiếng Hán), nên còn gọi là “Cá tự” . Hai mạch nhánh chạy ở hai bên phía trước là Long, Hổ, huyệt vị nằm ở giữa chỗ giao nhau, hai bên có dòng nước kèm theo, ví như cái trán trên mặt người.

SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH

Long mạch núi (sơn mạch) :
    Vốn là tên một con vật mang lại may mắn, theo truyền thuyết cổ đại Trung Quốc. Thuật Phong thủy mượn để chỉ mạch núi có sinh khí, nhấp nhô uyển chuyển như hình con rồng, nên gọi mạch núi, thế núi là Long. Âm dương nhị trạch toàn thư : “Sự vận hành nhấp nhô của mạch đất (địa mạch) gọi là Long”. Sinh khí vận hành trong lòng đất, không thể trực tiếp nhìn thấy, mà chỗ sinh khí thịnh vượng biểu hiện là mạch núi.
    Cho nên, Long là sinh khí sớ tại, Long đi thì khí đi, Long dừng thì khí dừng. Đất là mẹ của khí, khí dày ắt núi cao, khí dài ắt Long dài. Khí là mẹ của thủy, Long đi ất thủy tùy theo, thủy ngăn lại ắt Long dừng. Long gắn liền với sinh khí , dòng nước, chẳng thể tách riêng. Long dừng khí tụ, ắt là đất lành, có thể làm nhà xây mộ.
    Do mạch núi thiên hình vạn trạng, nên Long có hàng loạt tên gọi. Các bộ phận của mạch núi cũng có sự phân biệt thành các bộ vị khác nhau trên thân Long. Mạch núi có đất, đá, cỏ cây, trong đó đất là thịt của Long, đá là xương của Long, cây cỏ là da lông của Long. Ở vùng đồng bằng không có núi, thì chỗ hơi nhô cao lên là Long. Ở vùng đất thấp trũng, thì thủy đạo (đường nước) là Long, gọi là Thủy Long.   Để phân biệt với mạch núi, thế núi của mạch núi gọi là Sơn Long. Thẩm Long hình, biện Long mạch, định vị trí của nhà cửa và huyệt mộ, là nội dung quan trọng hàng đầu của thuật Phong thủy.
    Lấy mạch núi chỉ sinh khí, dùng cha Long cho thêm thần bí, là mặt hạn chế của thuật Phong thủy. Còn mượn cách tìm Long để lặn lội khảo sát hoàn cảnh địa hình thích hợp cho việc dựng nhà xây mộ, là mặt có giá trị của thuật Phong thủy.

Địa mạch :
    Tức mạch khí dưới lòng đất, sự vận hành lên xuống của nó biểu hiện ở mạch núi trên mặt đất, cũng là “Long” trong thuật Phong thủy vậy.
Long mạch Mạch núi. Nơi sinh khí vận hành. Thuật Phong thủy gọi mạch núi là Long. Long có mạch khí vận hành trong đó gọi là Long mạch.

Tầm long :
    Còn gọi là “mịch Long”. Tức là khảo sát toàn diện và thăm dò đo đạc hoạt động của chủ sơn (núi chính), là bước thứ nhất trong nội dung của thuật Phong thủy. Phương pháp tiến hành cụ thể là : trước hết, phải xem mạch núi bắt nguồn tử xa hay gần, tổ tông của nó cao to chừng nào, cha mẹ của nó ở đâu, tiến thoái rõ ràng hay không; hai bên mạch núi có các chi nhánh nhấp nhô như hộ vệ hay không, nếu có nhiều thì đại (rất) quí; thứ đến trung quí (quí vừa), tiểu quí; cuối mạch núi cần có thế thoải xuống, đằng trước cần có thủy lưu uốn quanh, hai bên có dãy núi hộ vệ, như vậy thì sinh khí mới dừng tụ, gọi là Chân Long.
    Long chia ra âm dương, đại thể mạch núi chạy sang bên trái (hướng đông) là dương, chạy sang bên phải (hướng tây) là âm. Lại coi mạch núi thuộc phương vị dương chạy đến là dương, mạch núi thuộc phương vị âm là âm. Khi tầm Long, phải chú ý điều hòa phương vị âm dương.  Nguyên tắc chung của tầm Long là nó phải tụ, nghĩa là mạch chính rõ ràng, uyển chuyển tiến về phía trước, không nên phân tán thành nhiều mạch nhánh khó tìm. Ở chỗ Long dừng lại, tức chỗ cuối mạch núi, cần có thủy ôm ấp sinh khí tụ tập; nếu không, sinh khí sẽ thoát đi nơi khác, là đất hung. Phương vị của nơi mạch núi nhập thủ cũng có qui định phức tạp, đại thể nếu từ phương bắc nhập thủ là cát Tầm Long là nội dung trọng yếu của thuật phong thủy.
    Những tổng kết về mạch núi và một số nguyên tắc là kết tinh vốn kinh nghiệm lâu dài.

Lai long :
    Tức núi chính (chủ sơn). Chỉ mạch núi chủ yếu ở giữa, cao lớn nhất. Lai Long đồng hành với mạch khí, là nơi sinh khí thịnh vượng, có thể dựng nhà xây mộ, tức là nhừ Lai Long mà đấc sinh khí. Bởi vậy, trước tiên phải khảo sát phương vị, hình dáng của Lai Long để định cát hung.

Chủ sơn:
    Địa hình, tức Lai Long. Chỉ mạch núi hoặc ngọn núi chủ yếu ở phía sau huyệt mộ hoặc nhà ở, là nơi có mạch khí, sinh khí theo đó mà đến. Xem mục Lai Long.

Tổ long :
    Mạch núi. Còn gọi là Sơn tổ. Chỉ nơi xuất phát của mọi mạch núi trong thiên hạ, tức núi Côn Luân. Côn Luân có hình thế cao lớn hùng vĩ, chúa tể thiên hạ. Tổ Long tách ra 2 đại hành Long là Nam Long và Bắc Long. Có thuyết nói chia ra 3 đại hành Long, nghĩa là có thêm Trung Long. Tổ Long và hành Long là nơi sinh khí tổng hội tụ, dựng nhà xây mộ tại đó thì đại cát.

HUYỆT MỘ, HUYỆT PHÁP VÀ TÁNG PHÁP

Huyệt :
    Địa hình. Chỉ huyệt mộ hoặc mảnh đất sở tại, nơi tận cùng của Lai Long, sinh khí hội tụ, có hai sa tả hữu bảo vệ, có thủy ngăn lại phía trước. Huyệt quan hệ mật thiết với mạch khí, hơi xê dịch, tức là thoát sinh khí. Phép định huyệt vô cùng phúc tạp.
    Trước tiên phái xác định vị trí hai bên cao thấp, tiếp đó nhận đúng tọa hướng, thứ ba là phải phối hợp với hình thế bốn phía; bốn là xác định độ nông sâu thích đáng. Nguyên tắc chung là vừa có được sinh khí nuôi dưỡng, vừa tránh ba cái hại là bị gió thổi, nước xối và kiến đục. Có rất nhiều yêu cầu cụ thể, ví dụ, huyệt ắt phải có môi, tức Táng khẩu, phải có trán, tức Cầu thiềm; phải có hai thủy giao hợp, tức thủy Hà tu và thủy Hợp khâm.
    Do Lai Long, hai sa Long Hổ và ứng án phía trước có hình dạng khác nhau, huyệt cũng phải có vị trí biến đổi tương ứng, nên có khi huyệt ở đỉnh núi, ở sườn núi, ở chân núi, lại khác nhau như trực thụ, trắc thụ, nghịch thụ.
    Huyệt cao không nên chênh vênh, huyệt thấp không nên lặn mất; huyệt nổi rõ không nên vội vã; huyệt tĩnh không nên huyên náo. Huyệt của núi cao, ắt phải ở chỗ hơi lõm; huyệt tại vùng đồng bằng, nên ở chỗ hơi nhô cao. Hình của huyệt hoặc hiền như hoa, căng như nỏ, hoặc như bàn tay để ngửa, như miệng hổ, hoặc như vú xệ, như lỗ rốn… Trong một vài trường hợp cũng có thể dùng sức người cải tạo địa hình cho phù hợp với yêu cầu kết huyệt. Mục đích cuối cùng của hàng loạt hoạt động Phong thủy âm trạch là tìm cho được huyệt địa lý tương, phương pháp vô cùng phức tạp, gắn liền với cát hung họa phúc.
    Ngoài nội dung mê tín, một số phương pháp rất chú trọng việc báo vệ thi thể và môi trường tự nhiên.

Thổ huyệt :
    Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt trên núi đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm thấp, tơi tả thì hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu vàng thì cát.

Thạch huyệt :
    Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất đá cứng khô là hung.

Bối tù chi huyệt :
    Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sườn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở đó sẽ bị kiến đục và nước xối lở, không cát lành.

Đằng lậu chi huyệt :
    Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo vệ không chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi, không cát lành.

Bất cập chi huyệt :
    Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trước không có án sơn, triều sơn, khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung.

Bất súc Chi huyệt :
    Chỉ huyệt mộ nằm ở chỗ không có mạch núi bảo vệ, gió cứ thổi thốc vào, khiến xương cốt mau bị hủy hoại, hung.

Tứ trấn thập tọa:
    Huyệt pháp. Tức căn cứ hình thế của Lai Long để xác định chỗ đặt huyệt mộ. Trấn, nghĩa là trấn thủ; tọa, nghĩa là tọa lạc. Tứ trấn tức là trấn đầu Long, trấn gáy Long, trấn bụng Long, trấn chân Long (có khi nói là trấn lưng Long). Tức là căn cứ hình thế hướng đi của mạch núi mà lựa chọn bộ vị tọa lạc của huyệt mộ. Nói chung, Long chạy thẳng đến, trấn đầu Long, tức là huyệt ở chỗ tận cùng, còn gọi là Tông Long. Long nằm ngang, trấn gáy Long, tức là huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, nên gọi là huyệt bám vào sống núi, hoặc Phán Long. Long cuộn khúc, trấn bụng Long, tức là huyệt ở chỗ đầu ngoảnh nhìn lại phía trong sườn núi, còn gọi là Ky Long. Long cao to bàng bạc, trấn chân Long, tức là huyệt ở chân núi, còn gọi là Thửa Long.
    Do “tứ trấn” mà sinh “thập tọa”. Trấn đầu Long ắt tọa tai Long, mũi Long, trán Long, bờm Long; mà tránh đuôi Long, sừng Long, răng Long, mắt Long. Trấn gáy Long, ắt tọa vai Long, gáy Long; mà tránh lưng Long, cổ Long. Trấn bụng Long ắt tọa rốn Long, vú Long; mà tránh ngang lưng Long, sườn Long. Trấn chân Long ắt tọa cổ tay Long , mắt cá chân Long; mà tránh khuỷu chân Long, móng chân Long. Có nhiều tiêu chuẩn nói về tứ trấn thập tọa khác nhau đôi chút, lại có thuyết nói thập nhị tọa, thực ra đều biểu thị một cách hình tượng sự lựa chọn bộ vị tốt nhất để định huyệt.

Tông long :
    Huyệt pháp. Mạch núi từ xa chạy thẳng tới định huyệt ở chỗ tận cùng của mạch, thì gọi là Tông Long, hoặc trấn đầu Long. Hình của nó như nhụy hoa, trông ngay ngắn. Ky phía trước Lai Long không có dãy núi che chở, bị ác phong thổi thẳng vào làm tiêu tán sinh khí. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Kỵ long :
    Huyệt pháp. Mạch núi quay đầu ngoảnh lại nhìn phía đuôi, trông như vòng tròn, định huyệt ở chỗ lõm núi mà đầu Long quay lại, lấy đuôi Long làm án sơn, thì gọi là Ky Long, hoặc trấn bụng Long. Hình của nó trông như gian chính của tòa nhà, phía trước huyệt có dãy núi chắn gió. Kỵ đối diện với sơn khẩu, gọi là “Kiềm lưu trực huyền”, nghĩa là dãy núi hai bên dốc thẳng xuống, sinh khí theo đó mà thất thoát hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Phán long :
    Huyệt pháp. Mạch núi chạy ngang, thẳng về phía trước, không quay đầu nhìn lại, định huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, thì gọi là Phán Long, hoặc trấn gáy Long. Hình của nó giống như huyệt Kiên tỉnh lúc thân người đang nằm. Tối kỵ không có huyệt Kiên tỉnh và Hạ sa không ôm vòng, thủy Bát tự (thủy hình chữ “bát”) không tụ lại, không có sinh khí, hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Thừa long :
    Huyệt pháp. Mạch núi cao to bàng bạc, nhấp nhô tiến tới; định huyệt ở khoảng giữa chân núi và vùng đồng bằng, thì gọi là Thừa Long, hoặc trấn chân Long.
Hình của nó như ánh mắt lờ đờ, ngụ ý thế núi đã hết, nhưng mạch khí vẫn còn, ở chỗ đất bằng tuy khó tìm dấu vết, song vẫn là đất lành. Ky mất thế mất mạch, cô đơn không chỗ dựa. Xem mục Tứ trấn thập tọa.

Tam đình :
    Huyệt pháp. Vốn là thuật ngữ khoa xem tướng, chỉ 3 phần trên mặt người : phần trán là thượng đình, phần mũi là trung đình, phần miệng là hạ đình; hoặc chi 3 phần trên thân thể người : phần đầu là thượng đình; phần từ vai đến eo lưng là trung đình; phần tử eo lưng xuống chân là hạ đình.
    Lý luận Phong thủy cho rằng tướng núi giống như tướng người, nên lập huyệt Tam đình, gọi là Thiên đình, Trung đinh, Địa đình. Huyệt thiên đình nằm ở nơi cao nhất, đòi hỏi Lai Long lớn và xa, thế xuống như mây vờn, hai bên phía trước có hộ vệ nghiêm mật, Minh đường ở phía dưới .
    Huyệt trung đình thì mạch núi uốn lượn, trong vuông ngoài tròn, rất chú trọng hình thế bốn phía xung quanh, đòi hỏi Minh đường phải rộng rãi sáng sủa. Huyệt hạ đình nằm ở vùng đất bằng, nhưng không được tách khỏi mạch khí, đòi hỏi Thủy thành phải như hình cầu vồng ôm ấp kín đáo.

Thập nhị trượng pháp :
    Huyệt pháp. Còn gọi là Thập nhị đảo trượng, là phép Thừa Long định huyệt do Dương Quân Tùng đởi Đường sáng lập. Phương pháp này căn cứ thế đến khác nhau của mạch núi mà qui định cách định huyệt khác nhau, như thuận trượng, nghịch trượng thúc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, ly trượng, một trượng, đối trượng, phạm trượng, tiệt trượng, đốn trượng; tổng cộng 12 trượng. Ngoài 12 trượng, còn có hình thế núi đặc thù, tạo thành 17 phương pháp kết huyệt, như thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm thúc, nghịch trượng kiêm thuận, đại thể lấy thuận trượng và nghịch trượng làm phương pháp cơ bản, kiêm với phương pháp khác, rất cụ thể tường tận.
    Thập nhị trượng pháp có ánh hưởng rất lớn trong Phong thủy âm trạch, một số nguyên tắc trở thành tiêu chuẩn mà các Phong thủy sư đều tuân theo.

Thuận trượng :
    Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thuận theo mạch chính của Lai Long. Yêu cầu lực lượng của Lai Long phải hậu trọng, thế đến hơi hòa hoãn, hơi uốn lượn; định huyệt phải chính giữa mạch khí, dung 4 phép Cái huyệt, Chương huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt. Huyệt loại này cực quí, chủ con cháu làm vương hầu, trạng nguyên.

Nghịch trượng :
    Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ngược với mạch chính của Lai Long. Yêu cầu Tổ sơn phải cao vút, nhấp nhô chạy thẳng đến trước mặt.
Định huyệt thì lấy Tổ sơn làm Triều sơn, dùng 4 phép Niêm huyệt, Tịnh huyệt, Câu huyệt, Tà huyệt. Mạch núi phía trước không được chĩa thẳng vào huyệt, nên huyệt phải cách mạch khí vài thước, ngược đón mạch khí. Huyệt loại này phát phúc lâu dài.

Thúc trượng:
    Huyệt pháp. Chỉ Lai Long dài mà kết thế ngắn, khí tụ ở trên đỉnh, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở chỗ sống núi co lại. Yêu cầu chỗ tận cùng của đỉnh núi phải hơi nhô, sinh khí tụ tại đó giống như huyệt Bách hội trên đỉnh đầu con người; dùng 2 phép Cái huyệt và Thôn huyệt. Do huyệt ở chỗ khá cao, rất sợ gió thổi, nên bốn phía phải cao tương ứng, Minh đường viễn tụ. Thúc trượng nên cao, không nên thấp; nếu thấp sẽ bị núi bốn phía lấn át.

Xuyết trượng:
    Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có thế đến hùng vĩ mà lục lượng nhỏ nhẹ, đến thẳng mà xuống gấp, cần thoát mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Mạch và huyệt lúc liền lúc rời, như thể dùng chỉ khâu áo, nên có tên như vậy (xuyết nghĩa là khâu). Yêu cầu huyệt phải ở cách mạch khí hoặc 1 – 2 thước, hoặc 3 -4 thước, không cao không thấp; thường dùng 2 phép Niêm huyệt và Trụy huyệt. Nếu huyệt cách mạch quá gần, khó tránh bị xung sát, nếu cách quá xa, sinh khí không được tiếp nối.

Khai trượng :
    Huyệt pháp. Chỉ Lai Long xộc thẳng đến như kẻ xung sát đáng sợ, cần né sang hai bên mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thành 2 huyệt; dùng 3 phép Ỷ huyệt, Ai huyệt và Tịnh huyệt, để huyệt mộ tránh bị xung sát mà tiếp nhận sinh khí từ bên cạnh. Yêu cầu phải quan sát xem Minh đường, sa thủy, Triều sơn và án sơn qui tụ tại phương nào. Huyệt cách mạch 2 – 3 thước, gọi là mượn mạch lập huyệt, chủ phát đạt mau chóng.

Xuyên trượng :
    Huyệt pháp. Chỉ mạch núi đến ngang hoặc đến xéo, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) tại chính diện, giống như dùng chỉ xỏ lỗ kim, tra cán búa, khí nhập vào eo lưng. Yêu cầu Lai Long từ xa đến thẳng, không tách thành các nhánh, tứ ứng đều tốt; dùng 3 phép Sáp huyệt, Chương huyệt, Cái huyệt. Mạch khí chỉ có thể đi vào từ eo lưng, không được xung não, sau khi mai táng chủ phát phúc lâu dài.

Ly trượng :
    Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có khí thế hùng vĩ, đang chạy đến thì bỗng nhiên sững lại, tụt xuống biến mất tại đồng bằng, cần tách khỏi mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Long mạch đang nhấp nhô chạy về phía trước, đến chỗ kết huyệt bỗng dàn trải thoáng rộng, tựa như con rắn con ve lột xác, sinh khí không tụ, cách mạch 2 – 3 thước ở phía trước tất có chỗ lõm đột ngột, sinh khí tụ lại ở đó; định huyệt tại đây rất tốt.
    Dùng 3 phép Cái huyệt, Tịnh huyệt và Trụy huyệt. Huyệt không nén sâu.

Một trượng :
    Huyệt pháp. Chỉ Lai Long uốn lượn xuống gấp mà chỗ tận cùng lõm hãm sinh khí đến đó thì hết; định huyệt (kết huyệt thụ huyệt) chỗ lõm, chìm vào mạch khí. Yêu cầu Lai Long phải có hình thế cao lớn, đến trước huyệt thì uốn lượn sang hai bên rồi vòng lại, kết thành lõm núi, xung quanh cao, huyệt mộ tàng ẩn ở sâu bên trong. Dùng 5 phép Chương huyệt, Sáp huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt, Giá huyệt. Nếu chỗ lõm quá nhỏ, có thể dùng sức người đục đẽo để tạo huyệt.

Đối trượng:
    Huyệt pháp. Chỉ Lai Long cao thẳng to lớn, ở chỗ nhập thủ bỗng nhiên thấp xuống, trải ra bằng phẳng, không có chỗ lõm, chỗ kẹp, nên định huyệt ( kết huyệt, thụ huyệt) ở giữa mảnh đất đó, hoặc ở chỗ tiếp giáp giữa phần cao với phần thấp. Do mạch Đối trượng cao mà gấp, xung sát liên tục, nên nửa cát nửa hung, khó biết thành bại.

Tiệt trùng :
    Huyệt pháp. Chỉ mạch khí của Lai Long không mạnh mẽ, chưa đến chỗ tận cùng thì dừng thâu mạch khí mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Yêu cầu chân núi của Lai Long phải khá dài, lập huyệt ở chỗ mạch khí chưa tận cùng; huyệt cao ắt bị gió thổi, huyệt thấp ắt bị băng đè, nên cần ngăn chặn mạch khí, làm cho sinh khí không bị tiết thoát, đó là điểm cốt yếu của Tiệt trượng.

Phạm trượng:
    Huyệt pháp. Chỉ Lai Long ngắn nhỏ, hòa hoãn, nên định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở trên mạch; nếu lập huyệt ở chỗ tận cùng thì sinh khí quá yếu, kém tác dụng, cho nên phải phạm mạch tọa huyệt để lấy vượng khí; thường dùng 4 phép Chương huyệt, Thôn huyệt, Cái huyệt, Sáp huyệt; đồng thời yêu cầu Minh đường phải rộng, núi sông phải ở phía xa. Có thuyết nói mạch Phạm trượng nguy hiểm, lập huyệt kiều này rất hung.

Đốn (đột) trượng:
  
    Huyệt pháp. Chi Lai Long cao lớn hùng vĩ, Tứ ứng đều thấp, nên đắp đất thành gò ở chỗ tận cùng mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Do sinh khí của Lai Long quá vượng, gặp thủy thì dừng mà cuồn cuộn bốc lên, bởi vậy phải đắp đất tạo huyệt để tiếp nhận sinh khí mà không bị xung. Nếu không đắp đất thành gò, huyệt mộ sẽ bị mạch khí bắn thẳng tới, mai táng ở đó con cháu sẽ tán gia bại sản.

Oa kiềm nhũ đột:
    Địa hình. Thuật Phong thủy cho rằng lập huyệt mộ ở chỗ lõm tròn, là nơi sinh khí hội tụ. Nơi lõm tròn có hình dạng khác nhau, nên có tên gọi khác nhau, trên tròn dưới nhỏ là Oa kiềm, dưới tròn trên lớn là Nhũ, giữa tròn trên dưới nhỏ là Đột.

Bào đột :
    Địa hình. Ở trong chỗ lõm tròn của huyệt mộ có điểm nhỏ nhô lên, trông như cái bong bóng nước (bào : bong bóng, đột : nhô lên); Nếu trong Oa kiềm có Bào đột, gọi là La văn, đại quí.
Phù thổ: Chỉ thổ nhưỡng của mặt đất ở chỗ có huyệt mộ. Bên dưới nó là Thực thổ.

Thực thổ:
    Chỉ thổ nhưỡng ở sâu dưới mặt đất, chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Phù thổ, bên dưới nó là Huyệt thổ.

Huyệt thổ:
    Chỉ thổ nhưỡng ở rất sâu dưới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dưới cùng, như hạt châu dưới vực, như ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không được đào xuyên sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chưa đào tới đo thì chưa đắc khí, nếu đào xuyên qua ắt làm tổn thương Long cốt. Phân biệt Huyệt thổ thì căn cứ vào màu sắc va đường vân của đất.
    Mà sắc của huyệt thố thì trong và nhuận ẩm, đường vân của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc như đồ hình Thái cực, hoặc như vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan quách; hoặc bao quanh tảng đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi đào tơi huyệt thổ thì dùng ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính là chân thổ (đất thực sự). Sâu dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đưa quan tài xuống.

Tam hại:
    Tức gió, nước, kiến. Phong thủy âm trạch cho rằng huyệt mộ bị gió thổi, nước xối, kiến đục là 3 cái hại, cho nên phải cẩn thận lựa chọn đất lành, tránh bị tam hại. Nếu chất đất tại huyệt mộ khô vụn, tơi, huyệt mộ không sâu, ắt khó tránh bị kiến đục. Nếu huyệt mộ ở chỗ đất ám ấm thấp, đào xuống quá sâu, thì khó tránh bị nước xói lở. Nếâu xung quanh huyệt mộ sông núi bao bọc không kín, ngay phía trước lõm khuyết, thì khó tránh bị gió thổi. Huyệt bị tam hại thì sinh khí không tụ, xương cốt khó được bảo tồøn nguyên vẹn, nguời chết không yên, người sống gặp họa, đại hung.

Tam cát lục hung:
    Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng. Tam cát : một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỷ tránh; hai là âm dương xung hòa, ngũ thổ tứ bị , ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực có đủ ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho có thể đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức người tu bổ được, là cát.
    Lục hung : một, âm dương sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc; ba, sức nhỏ đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dưới; sáu, ứng biến quái dị. Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng vọng hưởng phúc, đối xử không đúng với người trên kẻ dưới, phá hoại đất lành, nhiều lần gặp chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà táng hung thì chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu.

Phong thi :
    Phép mai táng. phong tục thời cổ, trước khi chôn người chết bèn dùng thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín “thất khiếu”, đề phòng thi thể khỏi bị thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm như vậy, thi thể sẽ không thể hóa, sinh khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem vứt xác xuống sông), đại hung.

Đạo táng :
    Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định : trước khi đào mộ chôn người chết, phải đem rượu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành 3 đoạn, rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì hung.

Ái khoảng
: 
    Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xưa, sau khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sưởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái khoảng sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản đối việc dùng gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều được chế tạo qua lò lửa, bên trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong đất, tiêu diệt ngũ hành, hung.

Hóa huyệt:
    Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng.

Quan thượng gia quan :

    Phép mai táng. Phong tục xưa đem người chết sau chôn chung vào huyệt mộ của người đã chết trước, gọi là “quan thượng gia quan”, ngụ ý để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng huyệt mộ được mai táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vượng, nếu đào lần thứ hai để mai táng thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ làm cho cả hai cùng hỏng. Một mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì huyệt thứ hai không có sinh khí; cho nên trong gia tộc đem chôn người chết sau chung huyệt với người chết trước là hung.    Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

XEM TỐT XẤU NGÀY GIỜ MẤT CỦA NGƯỜI THÂN

CÁCH TÍNH CAN CHI LỘC MÃ QUÝ NHÂN

CÁCH XƯNG HÔ VỚI NGƯỜI QUÁ CỐ