NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ PHƯƠNG PHÁP VẬN DỤNG TRONG VIỆC CHỌN NGÀY
Nguyên tắc cơ bản và phương
pháp vận dụng trong việc chọn ngày
Quyển 10 trong “Hiệp kỷ biện
phương thư” viết về nguyên tắc tuân thủ khoa trạch cát của người xưa như sau:
“Khi cát đủ để thắng hung: Theo điều nên làm mà không theo điều kiêng
kị. Khi hung, cát ngang nhau: vẫn phải kiêng việc hỷ. Nếu cát không đủ thắng
hung: theo điều kiêng kị mà không theo điều nên làm”.
Có nghĩa là, trong một ngày, có
đủ cả cát thần và hung thần. Xét về số lượng cát thần nhiều là ngày cát, hung
thần nhiều là ngày hung. Ngày cát thì theo điều nên làm. Ngày hung thì theo
điều kiêng kị. Xét về sức mạnh, nếu cát thần có sức mạnh thắng được hung thần
thì ngày đó là ngày cát, sẽ theo những điều nên làm. Ngược lại, nếu khí thế của
hung thần áp đảo cát thần, thì ngày đó là ngày hung, sẽ theo những điều kiêng
kị.
Nếu gặp trường hợp giữa hung thần và cát thần
không những có số lượng ngang nhau, mà sức mạnh cũng tương đương thì vẫn phải
kiêng những việc “hỷ” như kết hôn, mở chợ, mở cửa hàng, xây dựng động thổ,
thăng quan nhậm chức còn những việc mai táng, dỡ nhà đảo mái thì có thể làm;
Như vậy là không phải hễ cứ gặp hung là sát, không xem xét mức độ thế nào, cứ
nhất luật kiêng kị.
Ngoài nguyên tắc cơ bản nêu
trên, trong thực tiễn lâu dài khi tiến hành trạch cát, người xưa đã sáng tạo ra
rất nhiều phương pháp linh hoạt. Xin dẫn mấy ví dụ:
Phương pháp xử trí linh hoạt
khi gặp: “Mọi việc đều không nên làm”.
Trong sách nói “Mọi việc không
nên làm” là nói trong ngày đó hung thần vượt trên cát thần cả về số lượng và
sức mạnh, cát không thắng nổi hung, nên “Mọi việc đều không nên làm”. Nếu có
việc gấp, không thể đợi đến ngày cát, ta có thể linh hoạt chọn 1 giờ tốt trong
ngày đó để tiến hành công việc, nếu gặp bệnh nguy cấp cần cứu chữa ngay không
thể đợi được giờ tốt thì làm thế nào? lúc này, có thể chọn một hướng tốt, theo
hướng đó để tìm thầy tìm thuốc, cũng có thể được.
Phương pháp “tứ tung ngũ
hoành”.
Sách nói: khi có việc cấp bách,
không kịp chọn ngày, thì làm theo phương pháp sau: khi sắp ra đi khỏi cửa, hai
đùi sát nhau đứng thẳng, gõ răng (hai hàm răng đánh vào nhau 36 lần, sau đó
dùng ngón cái của tay phải vạch xuống đất, trước hết vạch 4 dọc (tứ tung), sau
đó vạch 5 vạch ngang (ngũ hoành) như hình vẽ. Vạch xong niệm chú 7 lần như sau:
“Tứ tung ngũ hoành
Tôi nay xuất hành
Vũ Vương bảo vệ
Xuy vưu tránh đường
Giặc cướp ngừng hoạt động
Hổ lang không hoành hành
Tất cả phải quay lại
Chặn đường ta sẽ chết
Chống lại ta sẽ nguy.
Cấp cấp như Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh.
Sắc”.
Niệm chú xong, lấy đất đổ đè
lên những vạch ngang dọc đó, rồi lập tức khởi hành. Trong khoảng 100 bước chân
không được ngoái đầu lại. Làm như vậy sẽ được bình an vô sự.
Phương pháp linh hoạt khi dựng
nhà:
Sách trạch cát nói: Muốn xây
nhà nhất định phải có điều kiện: Năm sinh, tháng đẻ và phương vị điều lợi mới
được. Nếu không lợi nhưng lý do nào đó nhất định phải làm, có thể vận dụng phương pháp dời chổ ở. Nếu đứng từ chổ ở
mới dời đến, nhìn về nơi định dựng nhà được hướng tốt thì vẫn dựng nhà được;
Thí dụ: Tuổi của bạn xây nhà ở phía Tây thì
lợi, xây nhà ở phía Đông thì không lợi, nhưng bạn lại muốn xây nhà ở vị trí
phía đông nhà bạn đang ở. Vậy bạn hãy tạm dời chổ ở đến một vị trí phía đông
nơi bạn định xây dựng nhà. Làm như vậy, tại chổ ở tạm mới, nhìn về nơi định xây
dựng sẽ là Tây, và bạn sẽ thực hiện được việc xây dựng theo ý định một cách đại
cát đại lợi. Điều thứ hai khi xây dựng nhà, tuổi của chủ nhà không hợp với việc
làm nhà, có thể chọn trong số con em một người có tuổi hợp với việc làm nhà,
dùng tên người đó mà khấn thần linh, sẽ tiến hành xây dựng. Khi xây dựng xong,
dọn vào nhà mới, sẽ biện lễ tạ lỗi với thần linh, sẽ được vô sự.
Người xưa có nhiều con, nói chung bao giờ cũng
chọn được người con hợp tuổi. Phàm việc xây dựng nhà, nên bắt đầu sau tiết Đại
Hàn năm ngày, hoàn thành trước tiết Lập Xuân, sẽ không phải kỵ các hung thần
như Thái Tuế, Khai Sơn Lập Hướng, Niên Nguyệt Khắc Sơn Gia và các hung thần
khác. Vì vào khoảng thời gian ấy, đúng vào lúc giao thừa giữa năm củ, năm mới,
các thần sát bận giao ban, tranh công đòi thưởng, say sưa chè chén, không có
thời gian để ý đến việc trần thế, nên người ta có thể lợi dụng việc sơ hở đó.
Song từ Lập Xuân, các thần sát đã giao ban
xong phương vị của từng thần đã định rõ, nên không thể động thổ một cách khinh
suất. Đương nhiên, nếu ở phương vị muốn xây dựng không có hung thần, thì cứ
tiến hành không có trở ngại gì.
Ngoài ra, nếu không may nhà cửa
gặp hỏa tai, thì có thể khởi công xây dựng lại trong khoảng 7 ngày sau đó gắng
hoàn thành tròn 15 ngày mà không cần xem xét thần sát cát hung ra sao. Vì người
ta nghĩ rằng thần sát cũng giống như con người, đều có lòng trắc ẩn, không nỡ
nào trong lúc người ta gặp nạn mà giáng thêm tai họa.
Phương pháp linh hoạt khi an
táng
Có hai loại. Một là “Thừa Hung” mai táng (mai táng
luôn nhân lúc hung): Khi người vừa chết, không để lâu, nhân lúc hung đem táng
luôn thì gặp hung thần cũng không hại gì. Cho nên đại đa số trường hợp thời
xưa, trong khoảng 3 ngày hoặc một tuần sau khi có người chết, không xét tới
Khai Sơn Lập Hướng hoặc Niên Nguyệt Thần Sát, chỉ chọn ngày giờ tốt là đào
huyệt đắp mộ trong ngày. Đến tiết Thanh Minh năm sau, sửa và tạ mộ trong ngày
là được. Hai là “Thừa loạn” mai táng
(mai táng trong lúc đang “loạn”) tức là chọn ngày đào huyệt an táng trong
khoảng 5 ngày sau Đại Hàn đến trước tiết lập xuân, có thể không kỵ Khai Sơn Lập
Hướng, Niên, Nguyệt, Nhật, Thời Khắc Sơn Gia và các hung thần năm tháng. Lý lẽ
của việc làm này giống như việc làm nhà đã nói ở trên, là lợi dụng sơ hở khi
thần sát đang giao ban.
Nhưng nhất định phải sửa và tạ mộ trước tiết
Lập Xuân hoặc tiết Hàn Thực. Thanh Minh năm sau. Với những mộ đã an táng, thì
việc vun đắp đất trồng cây, xây bục bát hương, hoặc sửa những chỗ đất sụt lở,
đều có thể làm trong dịp Hàn Thực Thanh Minh mà không cần xét tới Klhai Sơn Lập
Hướng và năm tháng ngày giờ. Bởi vì lúc đó các thần sát bận hưởng thụ tế lễ,
đáng giá lễ vật hậu bạc của mỗi nhà và thưởng thức lễ vật, nên không chú ý và
chẳng cần thiết đoái hoài đến việc sửa mộ của người trần, vì như vậy có lọi cho
các thần hơn.
Phương pháp linh hoạt khi đón
dâu
Nếu chọn ngày kết hôn giá thú châu đường được ngày tốt nhưng
lại kị với bố mẹ chồng, không có lợi cho bố mẹ chồng (tức bố mẹ chú rể) thì bố
mẹ chồng có thể tránh lúc cô dâu bước vào nhà, đợi đến khi cô dâu đã ngồi lên
giường mói quay về nhà, sẽ không phải lo ngại gì.
Nhưng có một số ngày hung thần
ác sát, không có cách nào linh hoạt tránh né được. Gặp những ngày đó, đành phải
nghiêm chỉnh kiêng kỵ. Không được khinh xuất làm bất kỳ việc gì. Những ngày đó
là:
Bách sự kỵ, cũng gọi là Dương công kỵ gồm 13 ngày, là: Mồng 3
tháng giêng, 11 tháng hai, mồng 9 tháng ba, mồng 7 tháng tư, mồng 5 tháng năm,
mồng 3 tháng sáu, mồng 1 và 29 tháng bảy, 27 tháng tám, 25 tháng chín, 23 tháng
mười, 21 tháng một, 19 tháng chạp. Theo giải thích, trong 13 ngày đó thần thánh
đặc biệt chú ý giám sát trần gian, cực hung, cực xấu, mọi việc đều không được
làm. Vì vậy, gọi là Bách kỵ nhật, Sách
Xuất hành bảo kính của Võ Danh Thị Đời Hán có dẫn ca dao dân gian về những
ngày hung trên như sau:
Thánh thần phải xuống mười ba hôm
Mọi việc cần phòng nhiều tổn thất
Xây cất nhà cửa, dựng công trình
Không gặp hỏa tai cũng cướp trộm
Kết hôn, giá thú đều không nên
Cuộc sống suốt đời khó hòa hợp
Người dưới trần gian những ngày này
Thấp tha thấp thỏm sống nơm nớp
Ma chay tống táng những ngày này
Đời đời con cháu đi ăn mày
Thăng quan nhậm chức những ngày này
Mọi điều rắc rối đến không ngơi.
Những ngày hung kiến, phá. Các nhà lịch pháp
thuộc Âm Dương Gia đều nói rằng: Phàm vào những ngày có Nuyệt Kiến, Nguyệt Phá,
Thiên Cương, Hà Khôi, mọi việc đều đại hung, tuy có cát thần, cũng không tiến
hành được việc gì. Những lịch thư hiệu lưu hành ở Hồng Kông, Đài Loan, nếu gặp
những ngày Kiến, Phá đều có ghi chú: “ngày có Nguyệt Kiến, (Nguyệt Phá) là
những ngày đại hung mọi việc đều không nên làm”.
Trong những ngày hung Bách sự kỵ ghi trong Cù Tiên Triều hậu kinh còn kể những ngày
Ngũ hành vô khí, Băng tiêu ngõa giải,
Diệt môn đại họa, Thiên địa tranh hùng thụ tử, Can chi vô khí v.v.. Trong
tập quán trạch cát của nhân dân , còn có Thiên
địa chuyển sát nhật, Lãnh bại nhật ám kim nhật (Trong ám kim nhật còn chia ra
tứ quí ám kim nhật, Thiên la ám kim nhật, Phục đoạn ám kim nhật, v.v...), Thiên
tặc địa tặc nhật, Tứ quí đại bại nhật v.v.. là những ngày đại hung đại ác,
những ngày đó không được làm việc gì chỉ có ngồi nhà thắp hương cầu khẩn để
tiêu trừ tai nạn.
Nhận xét
Đăng nhận xét